Từ xưa đến nay, người Việt thích ăn ngon, ăn nhiều trong ngày tết nên ta có câu “Đói giỗ cha, no ba ngày tết”. Ngày tết ta có “cỗ” tết: Ở miền Bắc ngoài món thịt đông đặc biệt còn có chả lụa (giò lụa), chả quế, chả đầu (giò thủ), canh măng, chân giò, nấm hương, miến gà, nem rán, xôi gấc và không thể thiếu bánh chưng xanh, dưa hành.
Ngày
nay, dầu muốn giản dị hóa, người Việt vẫn còn nhắc “thịt mỡ, dưa hành,
câu đối đỏ; cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”. Tục dựng nêu đã mất,
muốn làm sạch môi trường và tiết kiệm nên nước ta không còn đốt pháo
nhưng nếu không có bánh chưng xanh thì không được. Vì thế bánh chưng,
bánh dầy không thể thiếu ở miền Bắc. Miền Nam thì dùng bánh tét. Không
phải “thịt mỡ dưa hành” mà “thịt kho nước dừa, dưa giá”. Thịt kho miền
Nam rất độc đáo, chẳng biết vì sao có người gọi “thịt kho Tàu”? Người
Tàu không bao giờ kho thịt với nước mắm, người Việt không bao giờ kho
thịt với xì dầu. Tại sao lại gọi “kho Tàu”? Người Việt còn gọi là “kho
rục”. Miền Nam ngày tết luôn có nem bì và củ kiệu.
Nem bì
Củ kiệu
Miền
Trung có dưa món và một món đặc biệt gọi là “tré”, ít dùng chả lụa mà
là chả bò và giò thủ nhưng đặc biệt phải có thịt chua và tai heo. Ngoài
ra còn có các món đặc sản như bánh lá, bánh nộm không thể thiếu. Do khí
hậu mà miền Bắc lạnh nên có thịt đông mà các nơi khác không có.
Dưa món miền Trung
Món Tré đặc sắc
Chả bò miền Trung
Thịt đông - Món ăn đặc trưng đất Bắc
Ngày
tết, không thể thiếu mâm ngũ quả vì người Việt coi số 5 vô cùng quan
trọng trong đời sống như ngũ hành, ngũ sắc, ngũ vị (trong ẩm thực), ngũ
âm (trong âm nhạc). Nguyên gốc, mâm ngũ quả có các loại trái cây: mận,
hạnh, đào, táo và lý (hay điều). Nhưng do điều kiện của các khu vực sinh
sống người Việt có sự khác biệt, người dân từng miền không thể lúc nào
cũng kiếm được đủ 5 loại trái cây này.
Mâm ngũ quả miền Bắc
Mâm ngũ quả miền Nam
Từ
đó dẫn đến cách trình bày mâm ngũ quả cũng có sự khác biệt giữa hai
miền Bắc và Nam. Miền Trung có lẽ cũng trưng bày mâm ngũ quả giống như
miền Nam. 5 thứ trái cây miền Nam thường có: mãng cầu, dừa, sung, đu đủ
và xoài vì nói theo giọng Nam thì “cầu vừa đủ xài và sung túc”, còn miền
Bắc thường có: chuối, bưởi hoặc quả phật thủ, đào, hồng và quýt (hoặc
quất). Về cách trình bày, thường người ta chọn những quả lớn, có trọng
lượng để ở giữa sau đó mới đan chen những loại quả chung quanh để tạo
thành một mâm ngũ quả hình tháp. Riêng dưa hấu luôn lựa một cặp dưa loại
thật to để hai bên bàn thờ. Ngày tết cũng không thể thiếu mứt, kẹo.
Người Việt có rất nhiều thứ mứt vì theo văn hóa ẩm thực mỗi thứ mứt có
tác dụng trị được một bệnh. Như mứt gừng: ấm tì vị, dễ tiêu, chống đầy
bụng, đầy hơi; mứt bí: giải nhiệt; mứt dừa: nhuận trường; mứt sen: an
thần, dễ ngủ; mứt quất: tiêu đàm, chữa ho. Thật ra mỗi thứ mứt đều có
cái ngon riêng nên người bán thường trưng bày trong một hộp to 12 thứ
mứt khác nhau như: mứt me, mứt mãng cầu, mứt mít, mứt thơm và gần đây có
thêm mứt khoai lang. Kẹo thường dùng ở miền Nam có “thèo lèo”, kẹo dừa,
kẹo đậu phộng, hột điều; miền Trung còn có mứt me và mè xửng…
Ngoài
việc ăn còn nghĩ đến việc uống. Đặc biệt là các thứ rượu mạnh như rượu
làng Vân (Bắc Ninh), rượu Bầu Đá (Bình Định) và rượu đế (khắp cả nước).
Ngày nay, còn có thêm nhiều thứ rượu Tây các loại khác.
Men rượu Làng Vân
Rượu Bầu Đá
Người
Việt có những món ăn rất đặc biệt và đa dạng trong ngày tết. Và từ đó
chúng ta có thể hiểu được vì sao người Việt không nói “mừng lễ tết” mà
thường nói “ăn tết".
TRẦN VĂN KHÊ
(Đăng trên Sài Gòn Giải Phóng tháng 02/2010)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét