Thứ Bảy, 1 tháng 12, 2012

Buổi gặp gỡ khó quên giữa hai người Việt thiết tha với nền Văn hoá và Âm nhạc truyền thống Việt Nam


Trong suốt thời gian tôi ở bên Pháp, tôi rất may đã gặp các Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Pháp rất năng động, quan tâm đặc biệt đến việc giới thiệu Văn hoá Việt Nam cho người Pháp, nên đối với tôi có nhiều cảm tình đặc biệt. Hoặc những bạn thân từ ngày xưa, như Đại sứ Mai Văn Bộ, hay những người đã biết tôi từ lâu như Đại sứ Võ Văn Sung, Hà Văn Lâu ...
Riêng đối với Đại sứ Vũ Đức Tâm, tôi có một cảm tình đặc biệt và đã cùng Đại sứ đưa Âm nhạc Cung đình Huế đến nhiều Nước Tây Âu. Một vị Đại sứ sống chan hoà với Kiều bào hải ngoại, không phải dễ gặp trong giới ngoại giao. Khi Đại sứ mời tôi sang Bỉ để giới thiệu Nhã nhạc, Đại sứ để chiếc xe riêng của mình cho tôi và cháu Tươi sử dụng, còn Đại sứ cùng đi trên chiếc xe buýt chở Nhạc sĩ, trang phục, nhạc khí.
Hôm đến nhà gặp tôi để bàn về nhiều vấn đề Văn hoá, Đại sứ đã ghi lại những cảm tưởng khi gặp tôi sống trong một căn hộ chung cư, tầng lầu thứ 9 và những câu trả lời của tôi rất trung thực. Chưa có Nhà báo nào đến phỏng vấn tôi, mà trong bài tường thuật không sai một ý, không nhầm một chữ như bài sau đây đã được đăng trên Tạp chí Doanh Nhân Sàigòn cuối tuần, xin ghi lại trên Blog này bài tường thuật của Đại sứ Vũ Đức Tâm, đối với tôi còn là một Nhà nghiên cứu nghiêm túc, một Phóng viên có tinh thần nghề nghiệp:

Đại sứ Vũ Đức Tâm tại nhà GSTS Trần Văn Khê

HẦU CHUYỆN GIÁO SƯ TIẾN SĨ TRẦN VĂN KHÊ,
«ĂNG TEN» VĂN HÓA, ÂM NHẠC TRUYỀN THỐNG
VIỆT NAM TẠI HẢI NGOẠI
Từ lâu, khi còn ở trong nước, tôi đã nghe nói đến GSTS Trần Văn Khê, một nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc có tiếng , Giáo sư Đại học Sorbonne, Giám đốc nghiên cứu Trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học của Pháp, Thành viên danh dự Hội đồng âm nhạc thế giới, một nhà sư phạm đã từng đi giảng bài, nói chuyện ở hầu khắp các nước và ở đâu cũng được đón tiếp trọng thị và nồng nhiệt...
Khi sang công tác tại Paris với tư cách Đại sứ - Đại diện thường trực Việt Nam bên cạnh UNESCO tôi định bụng phải tìm mọi cách để tiếp xúc với Giáo sư. Và cơ may đã đến: nhân dịp Nhã nhạc được UNESCO công bố là «Kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại», Đoàn Nhã nhạc Huế đã sang biểu diễn tại châu Âu vào đầu năm nay. Giáo sư đã không quản tuổi cao, sức yếu nhận lời mời của Phái đoàn đến dự các buổi trình diễn và đã giới thiệu về Nhã nhạc một cách sinh động, đầy sức cuốn hút, góp phần đáng kể vào thành công của các buổi diễn. Sau «sự kiện» Nhã nhạc, tôi đã quen «thân» với giáo sư và... vào một ngày đầu xuân, khi giá rét đã qua, cây cối bắt đầu đâm chồi nảy lộc, chúng tôi đã đến thăm Giáo sư tại nhà riêng ở thành phố Vitry sur Seine, ngoại ô Paris.
Khác với sự tưởng tượng của tôi, Giáo sư không ở trong một biệt thự có sân, vườn bao quanh cũng không phải trong một căn nhà rộng rãi với đầy đủ tiện nghi, mà ở trong một căn hộ khiêm tốn nằm tận trên tầng 9 của một khu nhà với giá thuê rẻ. Thay vào những tiện nghi của cuộc sống hiện đại đó là ngổn ngang những sách, tài liệu, băng, đĩa nhạc, các loại nhạc cụ cổ truyền xếp đầy các giá sách, tủ sách, trên bàn, trên ghế và cả dưới sàn. Khắp căn hộ, phòng nào cũng vậy, sách, tài liệu, băng dĩa nhạc... «lấn» hết chỗ, chỉ còn một chỗ nằm của giáo sư trong phòng ngủ và chỗ đủ để kê một cái ghế Giáo sư ngồi và một cái ghế khác cho người đến thăm trong phòng khách. An tọa trong «cái ghế khác» ấy, tôi hầu chuyện Giáo sư ngồi ở ghế đối diện. Anh Tươi, người cháu đồng thời là trợ lý đắc lực của Giáo sư bưng khay nước mới pha đặt lên trên một cái ghế đẩu giữa chúng tôi.
Sự giản dị trong sinh hoạt đến mức «khó mà tưởng tượng nổi» của vị Giáo sư nổi tiếng khắp thế giới sống trên đất Paris hoa lệ khiến tôi chợt nhớ lại cách đây khoảng hơn hai chục năm, tôi có dịp cùng một nhà báo Pháp đến gặp nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện tại nhà riêng ở Hà Nội. Ông bà sống trong một căn phòng vừa là phòng khách vừa là phòng ngủ. Đồ đạc không có gì mà cũng chỉ thấy toàn sách, báo. Trước mặt tôi là một người mảnh khảnh, mặc chiếc quần kaki với cái áo sơ mi cộc tay đã bạc màu. Ông niềm nở mời chúng tôi ngồi xuống mấy cái ghế gỗ cũ kỹ đã tróc gần hết véc-ni và mời chúng tôi uống nước bằng bộ ấm chén cũng thật đặc biệt, ấm thì sứt vòi còn chén thì mỗi cái một kiểu... Nhưng ông đã lôi cuốn khách suốt từ đầu đến cuối với sự uyên bác, cách nói say sưa đầy thuyết phục, bằng một thứ tiếng Pháp «còn hay hơn cả người Pháp» như lời ông nhà báo đã nói với tôi sau cuộc gặp ấy. Sự giản dị trong cách sống tỉ lệ nghịch với vốn kiến thức sâu rộng, phong cách lịch lãm và sự tinh tế trong ứng xử của ông đã gây ấn tượng mạnh cho tôi và ông nhà báo Pháp.
Giáo sư Trần Văn Khê cũng cho tôi cảm tưởng như vậy. Chúng tôi đã mê say nghe Giáo sư nói bằng giọng rất truyền cảm, khi bằng tiếng Pháp, khi bằng tiếng Việt, khi bằng tiếng Anh, đến mức không để ý gì đến thời gian trôi qua. Câu chuyện giữa chúng tôi và Giáo sư xoay quanh đề tài âm nhạc truyền thống Việt Nam, Nhã nhạc và về cuốn sách sắp in của Giáo sư với tựa đề : «Du ngoạn trong âm nhạc truyền thống Việt Nam». Để bạn đọc tiện theo dõi và cũng để phản ánh một cách tự nhiên hơn, chúng tôi xin thuật lại nội dung chính của cuộc trao đổi lý thú này dưới dạng câu hỏi và trả lời.
Câu hỏi : Thưa Giáo sư, sau chuyến biểu diễn thành công ngoài mong đợi của Đoàn Nhã nhạc Huế tại châu Âu, mọi người đều thấy Giáo sư rất am hiểu âm nhạc truyền thống Việt Nam, nhất là Nhã nhạc. Trong đạo Phật thường nói đến «Nhân duyên», còn trong cuộc sống thường ngày ta nói tới «Duyên nợ». Xin Giáo sư cho biết «nhân duyên nào hoặc duyên nợ đặc biệt nào» đã khiến Giáo sư gắn bó cả cuộc đời với âm nhạc truyền thống và Nhã nhạc?
Trả lời:
Tôi gắn bó cả cuộc đời với âm nhạc truyền thống không phải vì nhân duyên hay duyên nợ nào mà do một «thiên duyên».
 Nhờ Trời tôi được sanh ra trong một gia đình, hai bên nội ngoại, đến tôi bốn đời, đều là nhạc sĩ. Tôi được có một người cậu áp dụng phương pháp giáo thai, lúc tôi còn ở trong bụng mẹ đã được cậu Năm tôi thổi sáo cho tôi nghe mỗi ngày. Vừa mở mắt chào đời, đã được nghe tiếng sáo của cậu Năm tôi. Từ nhỏ đến lớn, khi biết nói là biết ca. Từ 6 tuổi đã biết đờn cò (đàn nhị), đờn kìm (đàn nguyệt), 12 tuổi đờn tranh, 7 tuổi đã theo gánh hát cải lương của cô Ba tôi Bà Trần Ngọc Viện lập ra. Do đó, việc tôi gắn bó với  âm nhạc truyền thống đúng là nhờ «duyên trời» vậy.
Tôi đến với Nhã Nhạc, như tôi đã đến với Ca trù, Chầu văn Miền Bắc, Hát bội Miền Nam, nhạc Phật giáo 3 Miền, vì những bộ môn đó gặp khó khăn do những thay đổi về mặt chánh trị, kinh tế, xã hội, và có thể bị chìm vào quên lãng. Tôi đã cố tìm xem  trong thực chất, các bộ môn ấy có giá trị nghệ thuật hay không. Khi tôi đã thấy rằng các bộ môn ấy thực sự có những giá trị nghệ thuật nhưng chưa được đông đảo quần chúng và các cơ quan hữu trách nhận thức, tôi đã kiên trì phân tích, đúc kết và nêu ra những ưu điểm của Ca trù, Chầu văn, Nhã nhạc, Hát Bội kể cả bộ môn Múa rối nước bằng những bài viết và những buổi nói chuyện. Tôi tìm đủ cơ hội để giới thiệu những bộ môn ấy với người nước ngoài bằng đĩa hát, băng từ, băng video, để cho họ có dịp thưởng thức, phê bình, đánh giá. Còn ở trong nước, tôi cũng đi thuyết trình nhiều nơi, đã gặp nhiều bạn tri âm ủng hộ nên lần lần những bộ môn ấy đã được hồi sinh. Riêng Nhã nhạc cung đình Huế được Unesco tôn vinh là «kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại».
            Đại sứ Vũ Đức Tâm và GSTS Trần Văn Khê tại Unesco  
Câu hỏi : Chúng tôi được biết Giáo sư sắp cho ra mắt bạn đọc cuốn sách có tựa đề: «Du ngoạn trong âm nhạc truyền thống Việt Nam». Xin Giáo sư cho biết tại sao lại chọn cái tít ấy, từ «du ngoạn» ở đây có thể hiểu như thế nào ạ ?
Trả lời
Hơn 40 năm nay, tôi đã viết rất nhiều bài về âm nhạc truyền thống Việt Nam, với tư cách một nhà nghiên cứu, tức là «nói có sách, mách có chứng».  Và người đọc cũng là những nhà nhạc học, những sinh viên học nhạc. Từ khi tôi có dịp nói chuyện âm nhạc truyền thống Việt Nam cho đồng bào trong nước, tôi thường được nghe thính giả hỏi tôi : «Chẳng biết âm nhạc truyền thống Việt Nam có những gì và tại sao Giáo sư có thể để cả cuộc đời của mình tìm hiểu, giới thiệu và giảng dạy nó ở nhiều nơi ?»
Quyển sách sắp xuất bản trong mùa hè tới đây là câu trả lời của tôi, và tôi viết cho quảng đại quần chúng. Không đi sâu vào lý thuyết, không phân tách về thang âm điệu thức, tôi chỉ muốn làm một hướng dẫn viên cho đa số người Việt đi dạo chơi, «ngao du» trong vườn nhạc của dân tộc Việt Nam, để «thưởng ngoạn», nhìn qua một số hoa thơm cỏ lạ. Tôi chỉ gợi ý cho các bạn thấy trong vườn hoa âm nhạc truyền thống của Việt Nam có trăm hương ngàn sắc, mỗi loại có vẻ đẹp độc đáo đặc thù, một nét duyên dáng riêng để cho các bạn làm quen với những loại chưa quen, tìm hiểu những điểm chưa hiểu, và sau đó sẽ quí yêu thêm những gì cha ông chúng ta truyền từ đời nầy qua đời nọ, và để lại cho chúng ta một di sản văn hoá rất lớn, rồi… bỏ bớt lòng tự ti mặc cảm và thêm chút ít tự hào dân tộc. «Du ngoạn» là như vậy đó. Lúc nào khoẻ đi lâu, lúc nào mệt thì dừng chân. Không ai bắt buộc các bạn phải vào cửa này, ra ngõ kia. Các bạn tự do «du ngoạn».
Câu hỏi : Xin Giáo sư cho bạn đọc biết sơ qua về nội dung, bố cục cuốn sách?
Trả lời:
Cuộc du ngoạn trong âm nhạc truyền thống Việt Nam sẽ theo con đường đời của một con người trong xã hội Việt Nam từ lúc sơ sanh đến lúc trở về cõi vĩnh hằng.
Bạn đọc sẽ lần lượt theo tôi về làng quê nghe tiếng mẹ ru con, chị ru em,  nghe các em hát đồng dao, nghe thanh niên nam nữ cất tiếng hò vang trong những cánh đồng rộng, hay trên những con sông dài. Nghe những câu Hát phường vải, phường buôn, phường nón. Ca cho nhau những điệu lý trữ tình trong  lúc nghỉ ngơi, hát đối ca nam nữ, xe kết giao duyên, để trao đá đổi vàng trong  những đêm trăng vằng vặc, xuân thu nhị kỳ, trong các điệu hát đúm, hát xoan, hát ghẹo, cò lả, trống quân, hát giặm, hát quan họ.
Chúng tôi có nhấn mạnh rằng tiếng hát ru là bài giáo dục âm nhạc đầu tiên người mẹ truyền sang cho đứa con. Lớn lên, dù không học trong các trường nhạc hay nhạc viện, nhưng nhờ dựa vào cấu trúc câu hát ru được ghi vào tiềm thức của mình lúc còn là đứa bé nằm trong cánh tay êm ấm của bà mẹ, mà chàng thanh niên hay cô thiếu nữ đã tạo ra những câu hò điệu lý rất hay. 
Các bạn sẽ có dịp nghe Hát ả đào Miền Bắc, ca Huế Miền Trung, Đờn ca tài tử Miền Nam, thưởng thức tài nghệ của diễn viên hát chèo, hát Bội, hát Cải lương, hát Bài chòi, nghe những bài tán tụng theo truyền thống Phật giáo, xem những canh hầu giá trong truyền thống Chầu văn Miền Bắc, Hầu văn Miền Trung, xem Rối bóng Miền Nam. Nghe nhạc trong dân gian. Nghe nhạc trong cung đình: Đại nhạc, Nhã nhạc. Chúng tôi chỉ đưa các bạn đi du ngoạn trong truyền thống của người Kinh để nhận diện và biết qua những gì Cha Ông chúng ta đã để lại, và hẹn có những chuyến khác, không phải chỉ dạo qua mà dừng chân lâu hơn để có đủ thì giờ nhận thức được những cái hay, những nét đẹp kín đáo của mỗi bộ môn, và sẽ nhờ những hướng dẫn viên khác đưa các bạn đi xem những bông hoa ẩn núp trong kẹt núi rừng sâu ở các miền Thượng.
Câu hỏi: Theo như Giáo sư vừa nói thì Hát ru rất quan trọng trong việc gieo vào tiềm thức của trẻ em những cấu trúc âm nhạc dân tộc. Chúng tôi cũng cảm nhận được rằng Hát ru là cái hồn của văn hóa dân tộc, nó góp phần tạo ra bản sắc của người Việt Nam chúng ta. Chính vì vậy, chúng tôi rất tâm đắc nhưng cũng không khỏi chạnh lòng khi nhớ tới những câu thơ sau của Nguyễn Duy trong bài «Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa» :
«Mẹ ru cái lẽ ở đời

Sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn

Bà ru mẹ... mẹ ru con
Liệu mai sau các con còn nhớ chăng»
Giáo sư có ý kiến gì về đoạn thơ trên ?
Trả lời :
Tôi hoàn toàn đồng ý với nhà thơ cho rằng tiếng hát ru «nuôi phần hồn» của đứa bé. Cùng một lúc dòng sữa nóng nuôi thân em bé, một câu thơ dân gian, một nét nhạc dân tộc được rót vào tiềm thức của em. Lớn lên, tình em thương mẹ gắn liền với tiếng hát ru làm cho em gần gũi với nhạc nước nhà.
Mấy câu thơ trên làm tôi nhớ đến bài “Lời ru’’ của cố thi sĩ Nguyễn Hải Phương trong đó 4 câu cuối cùng, dường như tiếp lời của Nguyễn Duy :
«... Lời ru từ mẹ sang con
Từ con sang cháu mãi còn  À ơi !
Khi lời ru lắng trong tôi
Trèo non, non thấp, ra khơi khơi gần».
Câu hỏi : Trước tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường và nguy cơ đồng nhất hóa các giá trị văn hóa, theo Giáo sư, chúng ta phải làm gì để gìn giữ được bản sắc âm nhạc truyền thống nói chung và hát ru nói riêng, không phải chỉ để biểu diễn trên sân khấu bởi các nghệ sĩ chuyên nghiệp mà còn trả lại nó vào cuộc sống thường ngày, như có ai đó đã từng mơ ước : «Bao giờ xóm ngõ đổi đời / Để tôi nghe tiếng ru hời ngày xưa».
Trả lời :
Từ hơn 20 năm nay, tôi đã nhắc đi nhắc lại không nên để tiếng ru tắt trên môi các bà mẹ. Cố nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đã tổ chức Liên hoan Hát ru đầu tiên năm 1989, 6 tháng trước khi từ giã cõi đời và bài ca cuối cùng của nhạc sĩ mang tên «Lời ru chim Lạc».
Giữ gìn tiếng Hát ru cũng là bước đầu giữ gìn bản sắc dân tộc. Đã nhiều lần tôi nhận thấy rằng bản sắc dân tộc bị lu mờ, thanh niên thích nghe nhạc nước ngoài hơn nhạc dân tộc là một căn bịnh mãn tính. Muốn trị bịnh ấy phải trị căn chớ không trị chứng. Và những phương thuốc tôi đề nghị là :
·            Lập lại tiếng hát ru ;
·            Tập trẻ em hát lại đồng dao, hoặc những bài hát sáng tác theo truyền thống dân tộc, với nội dung phù hợp với trẻ con ;
·            Khuyến khích nông dân hò trong khi làm việc, hát trong lúc nghỉ ngơi ;
·            Khuyến khích thanh niên hát những bài loại đối ca nam nữ ;
·            Tổ chức những liên hoan dân ca cổ nhạc, những cuộc thi nhạc khí, và tiếng ca dân tộc ;
·            Đem âm nhạc vào học đường, từ lớp mẫu giáo, tiểu học lên đến đại học ;
·            Báo chí và các phương tiện truyền thông nên có nhiều bài viết, nhiều chương trình phát thanh, phát hình giới thiệu và giảng giải về âm nhạc dân tộc ;
·            Tôn vinh những nghệ nhân cả đời phụng sự âm nhạc dân tộc.
Phải nghe thưởng mới thấm, phải học mới hiểu, có hiểu mới thích, có thích mới thương, có thương mới muốn giữ gìn, mới sẵn sàng luyện tập biểu diễn và phổ biến. Như thế âm nhạc truyền thống mới thêm được sinh lực và bản sắc dân tộc mới được giữ gìn.
Câu hỏiLà người sống lâu năm ở nước ngoài, hiểu biết văn hóa của nhiều nước đồng thời cũng hiểu sâu văn hóa Việt Nam và thường xuyên về nước công tác, Giáo sư đánh giá thế nào về tình hình truyền bá văn hóa Việt Nam nói chung, âm nhạc cổ truyền Việt Nam nói riêng đối với cộng đồng quốc tế thời gian qua. Chúng ta cần làm gì để làm tốt hơn công tác này ?
Trả lời:
Muốn truyền bá văn hóa Việt Nam nói chung, và âm nhạc cổ truyền nói riêng với cộng dồng quốc tế, trước hết, trong nước chúng ta phải có một chánh sách rõ ràng về việc bảo tồn, phát huy âm nhạc truyền thống, không bế môn toả cảng, nhưng không có tinh thần vọng ngoại. Có được một nền âm nhạc cổ truyền vững mạnh mới có thể đem nó ra giới thiệu với cộng đồng quốc tế. Đến nay, theo tôi thấy, chúng ta chưa làm thực tốt công việc đó.
Chúng ta có thể truyền bá âm nhạc cổ truyền dưới nhiều dạng: dĩa hát, băng từ, băng video, sách báo, chương trình phát thanh, chương trình truyền hình, chương trình trên mạng lưới Internet. Nhưng sống động và hiệu quả nhứt là cho những đoàn nghệ thuật dân tộc ra trình diễn tại nước ngoài, những chương trình âm nhạc dân tộc có chất lượng nghệ thuật có lời giới thiệu khoa học ngắn gọn mà đầy đủ.
  Những công việc đó, chúng ta đã có nhiều nỗ lực, nhưng vì một số lý do khác nhau mà kết quả còn hạn chế. Hơn nữa, những đoàn gởi đi ngoại quốc trình diễn thường gồm những nghệ sĩ hay đoàn thể ở gần Trung ương hơn là những nghệ sĩ có biệt tài trong cả nước. Chúng ta cần tạo điều kiện hơn nữa cho nghệ sĩ đi dự liên hoan quốc tế, cho các nhà nghiên cứu đi dự Hội nghị quốc tế về âm nhạc kịch nghệ. Văn hoá và âm nhạc của chúng ta, giới thiệu và thảo luận trong các Hội nghị quốc tế sẽ được không phải người trong một nước mà có khi đến cả trăm nước tham dự Hội nghị quan tâm và thưởng thức.
 Tôi rất thông cảm với tình trạng kinh tế của nước ta nhiều khi chưa có đủ kinh phí để thực hiện những công việc cần thiết đó. Nhưng các cơ sở kinh doanh, Công ty Hàng không, và những Mạnh Thường Quân có thể tiếp tay chánh phủ giúp cho nghệ sĩ, hay các âm nhạc gia Việt Nam đem tiếng nhạc quê hương ra rộng khắp năm châu.
Xin cám ơn Giáo sư. Chúc Giáo sư luôn mạnh khỏe để tiếp tục đóng góp nhiều hơn nữa cho việc gìn giữ và phát huy âm nhạc truyền thống của dân tộc.
            Đại sứ Vũ Đức Tâm và GSTS Trần Văn Khê tại Unesco  
Paris, đầu xuân 2004

Người thực hiện: Vũ Đức Tâm

Đại sứ - Đại diện thường trực Việt Nam bên cạnh UNESCO

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét