Thứ Tư, 5 tháng 6, 2013

"Dưới trăng, mời chén tào thưng"


XUÂN DIỆU – HUY CẬN

TRÊN SÔNG SẦM GIANG
 "Dưới trăng, mời chén tào thưng"
Năm 1976, tôi về Hà Nội lần đầu do Trung tâm nghiên cứu khoa học Pháp gởi đi công cán. Viện nghiên cứu âm nhạc với phương pháp đối chiếu tại Tây Bá Linh chịu trả tổn phí đi lại nếu tôi có thể ghi âm được nhạc truyền thống Việt Nam để làm dĩa hát Unesco. Và Hội nhạc sĩ Việt Nam, ngang qua thơ của anh Đỗ Nhuận (với vai trò Tổng thơ ký), có ý muốn mời tôi về nước gặp các nhạc sĩ Việt Nam, đồng thời nói chuyện về âm nhạc truyền thống Việt Nam tại Hội nhạc sĩ và ở Trường nhạc Hà Nội. Nhờ ba sự trùng hợp mà tôi được về nước thực hiện một chương trình của Trung tâm nghiên cứu khoa học Pháp, vừa ghi âm được các điệu Quan Họ, các thể chánh trong truyền thống Ca Trù, các làn điệu cơ bản trong Hát Chèo, vừa gặp lại rất nhiều bạn cũ, quen thêm các bạn mới.

Tôi đang ở tại khách sạn Dân Chủ, phố Tràng Tiền thì có một người Việt tóc dợn sóng, mặt mũi khôi ngô đến tìm tôi.

- Ô kìa! Anh Xuân Diệu!

- Anh Khê! Anh còn nhớ tôi chớ?

- Làm sao quên được một nhà thơ lớn, một người bạn cố tri như anh?

- Anh còn nhớ đêm chúng ta buông thuyền ở quê của anh, làng Vĩnh Kim, tại Chợ Giữa, Sầm Giang?

- Tôi thì còn nhớ rõ lắm. Nhưng cái lạ là anh còn nhớ đêm ấy.

- Nhớ chớ! Vì nhớ nên hôm nay đến thăm anh và tặng anh một bài thơ tôi làm mấy năm nay, trông có dịp gặp anh để trao tận tay anh, bài thơ nhắc lại đêm ấy. Tôi chép vào trong quyển sách của tôi viết về thi hào rất lớn của chúng ta là Nguyễn Du.

- Cám ơn anh vô cùng! Quà này đối với tôi ngàn vàng không mua được!

Trước khi chép bài thơ của anh Xuân Diệu mà các bạn không thể tìm thấy được trong tuyển tập hay toàn tập thơ Xuân Diệu, bởi vì đó là bài thơ anh riêng tặng cho người bạn ở Vĩnh Kim, tôi xin phép nhắc lại cái đêm buông thuyền trên sông Sầm để các bạn có thể hiểu rõ hơn nhiều câu trong bài thơ của Xuân Diệu.

Năm đó là năm 1939, anh Xuân Diệu đang làm việc tại Sở Thương Chánh của Pháp tại Mỹ Tho (nay là Tiền Giang). Vì nghề thơ không nuôi nổi con người nên anh thi vào Sở Thương Chánh mà người ta thường gọi là Sở “đoan” (douanes), được bổ làm “cò mi” (commissaire). Nhà thơ Huy Cận, thuở ấy là sinh viên Đại học Canh Nông, mới ra trường. Anh Xuân Diệu, thấy làm việc tại Sở Thương Chánh, tuy có tiền mà thi hứng lại cạn, nên nhắn Huy Cận vào Nam để thử cùng nhau tìm xem có cách nào giúp Xuân Diệu trở về với thơ chăng?

Năm đó, tôi còn là học sinh trường Trung học Trương Vĩnh Ký, ban tú tài năm thứ nhứt. Người anh họ của tôi, anh Nguyễn Mỹ Ca học tú tài năm thứ nhì. Chúng tôi đều sanh trưởng trong gia đình âm nhạc. Trong làng tôi lại có một thi sĩ thường đăng thơ trong các tạp chí văn học là anh Khổng Nghi, được biết anh Xuân Diệu trong một chuyến đi Mỹ Tho. Anh khoe với anh Xuân Diệu rằng:

“Sầm Giang nhân vật tối đa kỳ”

Có thơ, có nhạc, lại có nhiều người đẹp. Vợ và em vợ anh Khổng Nghi là hai người đẹp rồi. Hai người chị bà con bên ngoại của tôi đã đẹp lại biết đờn. Đáp lời mời của thi sĩ Khổng Nghi, hai nhà Thơ lớn Xuân Diệu và Huy Cận đến Sầm Giang để cùng chúng tôi thưởng thức một đêm trăng trên sông, có nhạc, có thơ, có người đẹp và có cả những thức ăn đặc sản. Đêm đó có cháo gà xé phay, tráng miệng ngoài trái cây còn có món “tào thưng” (chè thưng gồm có bột khoai, bún tàu, nước dừa, đường cát).

Đêm ấy là đêm rằm, trăng trong, gió mát. Thuyền thả theo dòng nước. Nước ròng từ Vĩnh Kim, nước chảy ra Rạch Gầm, nơi Nguyễn Huệ đã vẻ vang thắng trận. Anh lái đò chỉ coi chừng lái thuyền trôi giữa dòng sông. Trên thuyền đêm nay, ngoài hai nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận còn có nhà thơ địa phương của chúng tôi, thi sĩ Khổng Nghi, nhạc sĩ Nguyễn Mỹ Ca là nhạc sĩ chuyên môn đờn vĩ cầm (violon), hai chị Hường, Trang đờn Tranh, tôi đờn Kìm, Trạch (em tôi) ca, chị Vân (vợ anh Khổng Nghi) lo việc bếp núc và anh Sáu, ngồi canh lái thuyền.

Thuyền rời bến phía dựa lúa gần chợ cá. Hai bên bờ sông dừa nước rậm rạp. Chúng tôi chuyện trò một lúc rồi nghe hai thi sĩ bình thơ và đọc thơ.

Neo thuyền lại, để thuyền đừng bị chao, chị hai Hường, Trang, anh Mỹ Ca và tôi so dây, đờn mấy bản “Bắc” nhỏ như Lưu Thủy, Kim Tiền, rồi đi lần đến Vọng Cổ. Thuở ấy, Vọng cổ chỉ có 16 nhịp một câu. Khi chúng tôi bắt đầu đờn thì hai bên bờ sông nhà nào cũng thắp đèn, mở cửa để nghe. Ngang qua cửa, chúng tôi thấy thấp thoáng vài bóng dáng thiếu nữ yêu kiều. Có gia đình ra ngồi cả ngoài sân vừa nghe đờn, vừa ngắm trăng. Có người pha trà, nhâm nhi cạnh ngọn đèn dầu...

Khi đờn dứt, chúng tôi nhổ neo, để thuyền trôi theo dòng nước. Trên bờ, thính giả tắt đèn, đóng cửa, có lẽ tiếc rằng buổi hòa nhạc quá ngắn. Nhìn thấy bóng thiếu nữ, anh sáu cất tiếng hò to :

Hò ơ ơ ơ … Gió đưa con buồn ngủ lên bờ

Mùng ai có rộng (ờ) … cho tôi ngủ, ngủ nhờ một đêm (ơ ơ …)

Cánh cửa đóng mạnh một cái rầm. Tiếng cười của anh Sáu vang to. Hai thi sĩ cũng cười nho nhỏ, thú vị khi thưởng thức được sinh hoạt văn nghệ tại nông thôn, nghe những câu thơ bình dân mộc mạc.

Thuyền trôi đến chỗ nào ưng ý, chúng tôi neo thuyền lại rồi bắt đầu hòa đờn. Lúc nào cũng có người “lắng tai Chung kỳ”. Rồi thưởng thức món cháo gà xé phay, ăn kèm rau ghém, bên cạnh đó cũng có vài chung rượu đế Vĩnh Kim cho ấm bụng. Chén “tào thưng” làm cho hai thi sĩ Miền Bắc tấm tắc khen ngon. Một thiếu phụ nấu ăn ngon, hai thiếu nữ diễm lệ, tài năng, nghệ sĩ, làm cho cuộc dạo thuyền này mang chút ít tính chất huyền thoại. Chúng tôi như Từ Thức lạc lối Đào nguyên.

Chúng tôi cập bến lên bờ khi gà gáy sáng.

Tôi biết rằng hai thi sĩ sông Hồng đã thích thú khi dạo trên sông Sầm. Nhưng tôi không ngờ rằng hơn 30 năm sau Xuân Diệu còn nhớ đêm trăng ấy, và anh có ghi ngày anh viết mấy câu thơ tặng tôi là ngày 23 tháng tư năm 1972. Bốn năm sau khi làm bài thơ ấy, anh mới gặp lại tôi và trao tận tay tôi bài thơ của anh.

Tặng Nhạc sĩ Trần Văn Khê



Hỡi lòng ta nhớ Vĩnh Kim

Vùng trăng Chợ Giữa cái đêm buông thuyền

Rì rào dừa nước hai bên

Bờ sông vắng lặng, mát hiền lòng sông

Chúng ta trẻ lắm hồn chung

Say thơ, mê nhạc, đắm cùng thiên nhiên

Ấy đêm nhạc nổi trong thuyền

Giọng ca nghệ sĩ, tiếng huyền tài năng

Dưới trăng, mời chén tào thưng,

Mà ba mươi lẻ năm chừng đã qua

Bạn ơi! Tổ quốc chúng ta

Cùng chung nhau đó mãi xa cách gì

Nắm tay thật chặt Văn Khê

Hẹn nhau Chợ Giữa ta về ngày mai

“Rằng nghe nức tiếng cầm đài

Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ”



Xuân Diệu

23-04-1972

Trao tận tay tôi ngày 22-03-1976



Bài thơ này không có trong tuyển tập thơ Xuân Diệu. Xin ghi lại để tạ tình thi sĩ đã nhớ buổi dạo thuyền trên sông Sầm Giang và nhờ anh mà từ “tào thưng” được lọt vào thơ Xuân Diệu.

Trần Văn Khê

(Trích trong tập “Hồi ký của GSTS Trần Văn Khê")