Tại trường Đại học Sorbonne Paris
Hội thảo quốc tế về đề tài:
TÍNH TRUYỀN KHẨU VÀ CÁCH ỨNG TÁC
TRONG ÂM NHẠC CÁC NƯỚC ĐÔNG Á
(Phần 1)
Ngày
1/07/04 vừa qua, tại trường Đại học Sorbonne Paris, có một Hội thảo
khoa học quốc tế về đề tài: «Truyền khẩu và ứng tác trong âm nhạc các
nước Đông Á» do Hội CHIME (Chinese Music Europa) chuyên nghiên cứu âm
nhạc Trung Quốc, trụ sở tại Leiden (Hà Lan) và Khoa Dân tộc nhạc học của
trường Đại học Sorbonne tổ chức. Hội CHIME từ vài năm sau này mở rộng
lãnh vực nghiên cứu đến các nước Đông Á.
Ban
tổ chức có gởi thư mời đến các Hội âm nhạc tại Trung Quốc, Nhựt Bổn,
Triều Tiên (Đại Hàn) các nước Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Úc, nhưng không có
mời những nhà nhạc học Việt Nam, vì trong các trường Đại học, hay các cơ
quan quốc tế, kể cả Cơ quan văn hoá Liên Hiệp Quốc (Unesco), Việt Nam
thuộc về Đông Nam Á.
Tuy
vậy, Trưởng ban tổ chức tại Pháp là Giáo sư François Picard, cựu môn
sinh của tôi, có thư mời đích danh tôi tham luận buổi lễ khai mạc, vì
hai lý do:
1. Tôi là một Giáo sư kỳ cựu đã giảng về âm nhạc Châu Á tại Sorbonne trong 26 năm.
2. Tôi là Thầy cũ của François, và anh biết rằng tôi đã nhiều lần giảng cho anh về đề tài ứng tác ứng tấu trong âm nhạc Châu Á.
Hôm khai mạc, trong chương trình có ghi tên ba Giáo sư biệt thỉnh, theo thứ tự a, b, c, đăng đàn đọc tham luận cơ bản:
- Giáo sư Frederic LAU, ngưòi Mỹ gốc Hoa, Giáo sư Đại học Hawaii at Manoa (Hnolulu): Đề tài lựa tại chỗ
- Giáo sư TRẦN Văn Khê: Cựu Giáo sư Đại học Sorbonne Paris: Đề tài bất ngờ.
- Giáo sư Rembrandt WOLPERT Giáo sư Đại học Arkansas (Hoa Kỳ): Thay đổi trong hình thức truyền đạt âm nhạc theo thời gian.
Có
lẽ vì trong chủ đề cuộc hội thảo có yếu tố «tùy hứng», nên thính giả
phải đợi lúc hai Giáo sư Frederic LAU và TRẦN Văn Khê lên bục mới biết
các vị lựa đề tài nào.
Giáo sư LAU
nói về Đại cương của tính truyền khẩu và ứng tác trong âm nhạc Châu Á.
Còn tôi nói về tính truyền khẩu và ứng tác trong âm nhạc Việt Nam.
Trước khi vào đề, tôi xin phép được định vị trí của âm nhạc truyền thống Việt Nam trong Châu Á.
Từ
trước đến giờ, trong các trường Đại học, cũng như trong các cơ quan
quốc tế, các Bách khoa từ điển, trong lĩnh vực văn hóa nói chung, âm
nhạc nói riêng, ai cũng sắp Việt Nam trong các nước Đông Nam Á, vì đứng
về mặt địa lý, nước Việt Nam ở trong vùng Đông Nam Á. Cũng vì vậy nên
khi bạn tôi, Giáo sư Kishibe Shigeo, trước khi biết tôi, đã chỉ đạo cho
một sinh viên Đại học Tokyo soạn luận án về đề tài: «Các nhạc khí thuộc
tranh loại trong các nước Đông Á» thì cô sinh viên chỉ nghiên cứu và
giới thiệu đàn Guzheng Trung Quốc, Koto Nhựt và Kayageum Triều Tiên mà
không đá động chi đến đàn Tranh Việt Nam. Giáo sư Wang Byong Lee khi
viết quyển sách về cách tán tụng kinh kệ Phật giáo trong các nước Đông Á
cũng chỉ nhắc đến 3 phong cách Trung Quốc, Nhựt Bổn và Triều Tiên.
Nhưng
thật ra, trong lĩnh vực văn hoá nói chung và âm nhạc nói riêng, Việt
Nam ngày nay, cùng ở trong khu vực văn hoá gồm các nước Trung Quốc, Nhựt
Bổn và Triều Tiên.
Về nhạc khí, thì có những cây đàn cùng họ với nhau như:
Guzheng Trung Quốc, Kayageum Triều Tiên, Koto Nhựt Bổn, Đàn Tranh Việt Nam. Còn phải nhắc đến đàn Yatga của Mông Cổ.
Đàn Pipa Trung Quốc, đàn Pipa Triều Tiên, đàn Biwa Nhựt Bổn và đàn Tỳ Bà Việt Nam.
Ngày xưa, trong dàn nhạc cung đình Trung Quốc có kèn Pili, Triều Tiên có kèn cùng tên Pili, Nhựt Bổn kèn Hichiriki, Việt Nam kèn Tất lật (Tất cả mấy tên đó cùng viết ra một chữ theo Hán tự).
Về thang âm cổ cả 4 nước đều dùng 5 âm Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ viết cùng chung Hán tự mà đọc phát âm ra khác nhau.
Cách chép nhạc bằng các chữ Hò Xự Xang Xê Cống 4 nước đều có dùng. Chỉ trừ ra ở nước Nhựt thì cách chép nhạc như thế chỉ còn ở vùng Okinawa miền Nam nước Nhựt.
Các
loại nhạc dầu khác nhau về hình thức hay trong chi tiết, cơ bản có
nhiều điểm tương đồng. Nhạc cung đình và nhạc trong dân gian có những
tên giống nhau Ya yue và Su yue Trung Quốc, Ah ak và Sok ak Triều tiên, Gagaku và Zokkugaku Nhựt Bổn, Nhã nhạc và Tục nhạc Việt Nam.
Tôi
chỉ nêu ra mấy điểm tương đồng trong âm nhạc chớ trong ngôn ngữ, chữ
viết theo Hán tự, danh từ âm nhạc, danh từ khoa học, chánh trị còn nhiều
điểm giống nhau.
Ban tổ chức nên để ý đến các điểm đó để sau này khi tổ chức về âm nhạc các nước Đông Á, đừng quên mời đại biểu Việt Nam.
Sau
phần mở đầu có hơi dài dòng nhưng cần thiết, tôi nói qua tính truyền
khẩu rất rõ rệt trong dân ca, cách học nhạc thính phòng, nhạc sân khấu,
nhạc lễ, nhạc tôn giáo, nhạc cung đình trong truyền thống Việt Nam.
Học đàn đáy Ca Trù thì xướng âm theo những chữ Tính, Tĩnh, Tình, Tinh, Tung, Tàng, Tang. Học ca nhạc Huế hay Đờn ca Tài tử thì xướng âm theo Hò Xự Xang Xê Cống. Học thổi kèn thì dùng những âm Hồ Hợi Hu Ha Hí. Học đánh trống thì phải biết đánh trống miệng trước khi đánh trống thật, và dùng các âm Tùng, Tà rùng, Tong, Tà rong, Táng, Tà ráng, Cắc, Trắc, Tà rắc, Sậm, Rụp, Tịch, Rù .
Tôi giải thích trong chi tiết cách dạy và học theo phương pháp truyền khẩu và tự minh họa.
Đến khi nói về ứng tác, tôi thuyết trình và minh hoạ cách Rao (hay dạo) lúc mở đầu, như Yin ze (Dẫn tử) của Trung Quốc ngày xưa, hay Netori (Âm cảm) trong Gagaku (Nhã nhạc Nhựt Bổn) ngày xưa mà ngày nay đã thất truyền.
Tôi nói qua đến cách học «Chân, Phương» mà đờn hay đánh trống «Hoa, Lá», hát khuôn và hát hàng hoa. Từ «lòng bản» đờn đổi ngón, thêm ngón. Và tôi minh họa những điểm đã thuyết trình bằng một khúc đờn tùy hứng trên đờn Tranh.
Sau ba bài tham luận cơ bản, có một buổi hoà nhạc rất đặc biệt.
(còn tiếp)
trantruongca wrote on May 9, '09
Cán ơn con đã đọc bài và góp ý. Buổi họp nầy không có ghi hình con à!
Thầy TVK |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét