THẢO LUẬN BÀN TRÒN VỀ THƯƠNG HIỆU QUỐC GIA
Trong
việc hình thành một thương hiệu quốc gia, nhân tố văn hóa, lịch sử đóng
một vai trò rất quan trọng trong đất nước Việt Nam.
Nước
Việt Nam là quốc gia có một bề dày của lịch sử, có được nhiều danh lam
thắng cảnh danh tiếng hoàn cầu như Vịnh Hạ Long, Động Phong Nha …, là
một quốc gia đứng hàng đầu trong việc xuất khẩu lúa gạo, cà phê (cà phê
Trung Nguyên đã được trên 50 nước biết đến và liên hệ để mua cà phê bán
trong nước họ). Nhưng về mặt văn hóa có thể có nhiều nhân tố để giúp cho
thế giới biết đến Việt Nam và có ý muốn đến viếng Việt Nam.
Văn hóa tôi muốn bàn tới đây bao gồm cả văn hóa Ẩm thực, Trang phục, Nghệ thuật.
+ Văn hóa Ẩm thực :
Việt Nam có phong cách rất đặc biệt trong việc chế biến và thưởng thức những món ăn. Quan tâm đến tính cách tổng hợp (làm thỏa thích ngũ quan con người, chứ không phải chỉ nhắm vào khẩu vị), tính cách khoa học (âm dương tương xứng, hàn nhiệt phân minh, lựa những thức ăn để phòng bịnh và trị bịnh), tính cách dân chủ (trong
một bữa tiệc có nhiều món và dọn tất cả trên bàn để cho thực khách có
khả năng và có quyền chọn lựa món nào phù hợp với khẩu vị và sức khỏe
của mình), tính cách cộng đồng (nồi cơm và tô canh là nơi gặp gỡ của các thực khách).
Trong
các món ăn, có chả giò miền Nam mà trên thế giới đều gọi chung một
tiếng là “nem”, và “phở” miền Bắc đã được nhiều nước trên thế giới dọn
để tiếp khách. Ngoài ra, các loại bún, gỏi cuốn, bì cuốn … cũng được
người nước ngoài hoan nghinh. Ông Phillip Kotler, ông tổ ngành marketing
hiện đại, cho rằng Việt Nam có thể xây dựng thương hiệu cho mình là
“Bếp ăn của thế giới”. Trong những thức uống chúng ta cũng nên để ý đến
rượu Làng Vân (Bắc Ninh), rượu Bầu Đá (Quảng Nam), rượu Gò Đen (loại
rượu đế miền Nam). Tôi có dịp nếm được tất cả các loại rượu đó và công
tâm mà nói rượu Việt Nam ngon hơn rượu Sakê của Nhựt, có thể so sánh
không thua với rượu Vodka của Nga. Cà phê Trung Nguyên hương vị thơm
ngon không kém gì Nescafe, Carte noire của châu Âu.
Về nước chấm thì nước mắm Việt Nam được nhiều nơi trên thế giới biết đến, ưa thích hơn cả xì dầu của Trung Quốc.
+ Văn hóa Trang phục :
Chiếc
áo dài của người phụ nữ Việt Nam được thế giới hoan nghinh, tán thưởng.
Năm 1995, tại Tokyo Nhựt Bổn có tổ chức một cuộc thi quốc tế để dành
giải thưởng cho một loại áo của phụ nữ trong các nước châu Á, mang tên
“Miss International Pageant”, năm đó các loại áo đều có mặt, từ sari Ấn
Độ, kimono Nhựt Bổn, hanbok Triều Tiên, … nhưng áo dài Việt Nam đã được
tôn vinh là trang phục phụ nữ đẹp nhứt châu Á.
Danh
từ “áo dài” trong văn hóa trang phục và một số danh từ khác như “phở”,
“nem” trong văn hóa ẩm thực, “đàn tài tử” trong âm nhạc (từ sau này nhờ
Ea Sola phổ biến) được báo chí trên thế giới dùng mà không cần phải dịch
sang tiếng bản xứ.
Trong
các cuộc thi Hoa hậu Hoàn Vũ, từ những năm 2006 đến nay, ngoài những
trang phục dự dạ hội, áo tắm … đều có một cuộc thi áo dài. Năm 2008, đêm
chung kết được tổ chức tại Nha Trang, ban tổ chức nhờ nhà thiết kế Võ Việt Chung may 85 bộ áo dài cho cuộc thi, mang tên là “Big Collection Hoa hậu Hoàn Vũ”.
Ngoài
ra, các nhà thiết kế nổi tiếng của Việt Nam như Sỹ Hoàng, Minh Hạnh đều
có những buổi giới thiệu thời trang đại quy mô trong và ngoài nước. Đặc
biệt, tại Pháp, Bỉ và Nhựt, hai nhà thiết kế đó được mời đích danh để
tổ chức nhiều buổi giới thiệu thời trang và những bộ sưu tập áo dài của
hai vị đó được các nước kể trên quan tâm.
+ Văn hóa Nghệ thuật :
Trong
các nước trên thế giới, chưa có nơi nào qui tụ những loại nhạc khí tiền
sử đặc biệt như Trống Đồng vùng Đông Sơn miền Bắc, Đàn Đá vùng Tây Nguyên
miền Trung Nam Việt Nam. Các nhà khảo cổ thế giới đồng ý dùng địa danh
“Đông Sơn” làm tính từ cho một giai đoạn văn hóa đồng thau (Période
dongsonniène).
Trống
Đồng còn khai quật được tại miền Nam Trung Quốc và nhiều nước châu Á.
Đàn đá chỉ có tại Tây Nguyên. Năm 1949, 11 thanh đá kêu mà dân bản xứ
gọi là Goong-lu, tức là đá kêu như tiếng Cồng, tại Làng N’hứt Lieng
Krak, đem về Pháp, có 3 nhà nhạc học Andre Schaeffner (Pháp), Jaap Kunst
(Hà Lan) và Constantin Brailoui (Lỗ Ma Ni) đều xác nhận rằng đó là một
nhạc khí tiền sử, chưa gặp được ở nơi nào trên thế giới.
Ba
chục năm sau, năm 1979, Viện Nghiên cứu Âm nhạc Việt Nam, do cố GS Lưu
Hữu Phước làm Viện trưởng, có cho một phái đoàn do Nghệ sĩ Kpa Ylang,
người dân tộc Banar, làm trưởng đoàn, phối hợp với gia đình của Bobo
Reng, chủ nhân của bộ đàn đá, lên đến vùng Khánh Sơn khai quật được 12
thanh đá, mang tên “đàn Đá Khánh Sơn”, đã giới thiệu đàn Đá đó tại Nhà
hát lớn Hà Nội và nhạc sĩ Đỗ Lộc đã đánh trên Đàn Đá bản nhạc “Gọi nhau
về nguồn” của NS Lư Nhất Vũ.
Năm 1980, tìm được tại làng Bác Ái hơn 30 thanh đá và bộ đàn đó mang tên “Đàn đá Bác Ái”.
Năm
1981, tìm được tại làng Bình Đa gần Biên Hòa những thanh đá còn được
chôn chung với hiện vật đồ gốm, nên các nhà khảo cổ dùng Carbone 14 định
niên đại của cây đàn, thì xác định rằng đàn này được chế tạo cách nay
hơn 3.000 năm. Sau này còn thêm những đàn đá khác : “Đàn Đá Tuy An”
(1995) và nhiều thanh đá khác được tàng trữ tại bảo tàng viện Bảo Lộc.
Như
vậy, về mặt nhạc khí có Trống Đồng và Đàn Đá là những nhạc khí tiền sử
xưa nhứt, độc đáo nhứt, chỉ tìm được trên giải đất Việt Nam, mà không
tìm được nơi khác.
Về các bộ môn âm nhạc thì Ca Trù rất đặc biệt :
-
Kỹ thuật của ca nương như ém hơi, nhả chữ, nảy hạt khác hẳn với các kỹ
thuật thanh nhạc trên thế giới. Ca nương vừa ca, vừa gõ phách.
-
Cỗ phách của Việt Nam, đặc biệt trên thế giới không có nơi nào mà dùi
dùng để gõ phách. Có 2 chiếc, 1 chiếc để tròn (tượng trưng cho dương vật
Linga), 1 chiếc chẻ ra làm 2 theo chiều dài (tượng trưng cho âm vật
Yoni). Cỗ phách bằng tre hay bằng gỗ, hai chiếc dùi được gọi là phách
cái và phách con (cũng hàm ý âm và dương), hai tiếng gõ khác nhau, một
tiếng trong một tiếng đục, một tiếng cao một tiếng thấp, một tiếng nhẹ
một tiếng nặng, một tiếng âm một tiếng dương. Hai dùi phách gõ trên cổ
phách tạo nên một tiết tấu đặc biệt, có nhịp mà như không nhịp, hiện mà
ẩn, thực mà hư, chỉ có tiết tấu bên Ấn Độ hàm chứa những yếu tố đó.
-
Cây Đàn Đáy 3 dây, cần dài, được chế tạo tại đất nước Việt Nam từ thế
kỷ XV, trên thế giới không có nhạc khí nào giống như thế hay cùng loại.
Trong khi các cây đờn Tranh, Tỳ, Nhị, ống Sáo, ống Tiêu đều có ở nhiều
nước Đông Á dưới những hình thức khác.
-
Trống chầu có 3 chức năng : Tham gia biểu diễn bằng cách đánh mở đầu và
chấm câu – Phê phán và khích lệ ca nương và kép đàn – Giáo dục quần
chúng cho người nghe biết đoạn nào hay.
Ca Trù là một sự gặp gỡ nhuần nhuyễn giữa thi ca và âm nhạc.
- Chỉ cần 2 diễn viên và 1 người cầm chầu vẫn có thể gây thích thú cho người nghe suốt đêm thâu.
-
Thang âm, điệu thức và tiết tấu rất độc đáo, không tìm thấy trong bộ
môn âm nhạc nào khác của Việt Nam và âm nhạc trên thế giới.
Đó
là văn hóa nghệ thuật của người Kinh. Ngoài ra, còn có 54 dân tộc thiểu
số, mỗi dân tộc có một ngôn ngữ và cách đàn, hát, múa khác nhau. Vườn
hoa âm nhạc của toàn nước Việt Nam có rất nhiều đóa hoa muôn hương ngàn
sắc.
Kết luận :
Trên
đây, nếu xem xét về mặt văn hóa thì có rất nhiều yếu tố có thể dùng để
định thương hiệu cho đất nước Việt Nam. Tôi nghĩ tới những tính từ sau
đây : Ancient, Original, Multicultural Vietnam. (Văn hóa Cổ xưa, Độc đáo, Đa dạng)
Xin chúc Hội thảo thành công.
Bình Thạnh, ngày 28-06-2010
GSTS Trần Văn Khê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét