NGHỆ THUẬT ĐỜN CA TÀI TỬ
TRONG KHÔNG GIAN VĂN HOÁ NAM BỘ
(Bài tóm tắt họp báo 04-01-2011)
Đờn
ca tài tử là một sinh hoạt văn nghệ thuộc loại thính phòng (một nghệ
thuật do một nhóm nhỏ nghệ sĩ biểu diễn cho một nhóm nhỏ thính giả,
không gian ấm cúng của một căn phòng trong tư gia, chớ không phải trong
một hội trường lớn, hay trên một sân khấu hoành tráng cho đông đảo thính
giả).
Trong buổi họp báo này tôi muốn nêu lên một vài vấn đề quan trọng :
1. Về danh từ đờn ca tài tử
Phần
đông khi nhắc đến đờn Tài tử thì cho rằng lối nhạc đó không sâu sắc
chuyên nghiệp mà mang tính cách giản dị của dân gian hay “a ma tơ” (theo chữ Pháp “amateur” của những người nghiệp dư. Thực ra “Tài tử” có nghĩa là người có tài (dập dìu tài tử giai nhân … Tài tử giai nhân tế ngộ nan).
Người đàn Tài tử không dùng nhạc Tài tử làm kế sinh nhai. Khi nào thích
đàn thì họp nhau tại nhà một người trong làng rồi cùng nhau đàn chơi,
ai biết đàn ca cũng có thể tham gia được. Dầu vậy mà trình độ nghệ thuật
của đàn Tài tử không thấp. Ngược lại, họ thường tập luyện rất công phu,
phải theo thầy học từ chữ nhấn, chữ chuyền, rao sao cho mùi, sắp chữ
sao cho đẹp và tạo cho mình một phong cách riêng. Muốn trở thành người
đàn Tài tử đúng nghĩa phải trải qua thời gian tập luyện khá công phu.
2. Sự thành hình nghệ thuật đờn ca tài tử
Đến
cuối thế kỷ 19, khi có phong trào Cần Vương, một số nghệ nhân, nghệ sĩ
vào Nam lập nghiệp, đem theo truyền thống đờn ca Huế như các cụ : Nguyễn
Liêng Phong, Nguyễn Tòng Bá, thường gọi là ông Tư Bá dạy đờn nguyệt
(trong Nam gọi là đờn kìm), đờn tranh ; ông Phạm Đăng Đàn, cư ngụ tại
Vĩnh Long chuyên dạy đờn độc huyền (đờn bầu) ; cụ Trần Quang Thọ (nhạc
công cung đình Huế, ông cố nội của tôi) dạy đờn tỳ bà.
Trong
Nam có rất nhiều người học, không những người giai cấp thượng lưu, thầy
thông, thầy ký thích học và tấu đờn ca tài tử, mà những ngưởi nông dân
chân lấm tay bùn sau những ngày lao động ngoài đồng áng, hay người chèo
thuyền trên sông, những chuyến đò ngang, đò dọc, đều thích học và biểu
diễn đờn kìm, đờn cò hay thổi sáo trúc. Tất cả những người học luyện đờn
ca không phải để mưu sống mà để thoả thích nhu cầu sinh hoạt văn nghệ,
mình đờn cho mình nghe, cho bạn bè, người thân, kẻ thích nghe, không lấy
tiếng đờn làm kế sanh nhai, nên cách đờn đó được mang danh là “đờn ca
tài tử”. Vì vậy nên có thể nói đờn ca tài tử hình thành từ “ca Huế” một
loại nhạc truyền thống nghệ thuật” có thể nói là “bác học” lại mang nặng
tính các “truyền thống dân gian”.
3. Những nhạc khí dùng trong truyền thống đờn ca tài tử
Trước kia ở miền Trung thuộc loại “ngũ tuyệt”, gồm có 1 cây đờn kìm (đàn nguyệt), 1 cây đờn tranh, 1 cây đờn tỳ bà 1 cây đờn tam hoặc cây đờn độc huyền, 1 cây đờn cò (đàn nhị)
Theo truyền thống đờn ca tài tử, ít khi nhạc công độc tấu mà thường thì song tấu, tam tấu (kìm,
tranh, cò). Đôi khi có ống sáo ngang hay ống tiêu thổi dọc. Từ khoảng
năm 1930 có thêm những cây đờn phương Tây, như violon, mandoline khoét
phím, ghi-ta măng-đô, ghi-ta Hạ-uy-di, ghi-ta Tây Ban Nha được nhạc công
Việt sửa lại bằng cách khoét sâu khoảng giữa hai phím đờn ghi-ta và gọi
là “ghi ta pím lõm”, những nhạc khí nầy, nói rất “trung thực, chính
xác” ngôn ngữ âm nhạc truyền thống Việt Nam.
Khác
với truyền thống ca nhạc thính phòng, ca trù miền Bắc, ca Huế miền
Trung trong đó tiếng ca quan trọng hơn tiếng đờn. Trong đờn ca tài tử
dàn đờn quan trọng hơn tiếng ca.
4. Một buổi đờn ca tài tử
Những bạn đồng điệu, thường gặp nhau và cùng hoà đờn ca tài tử. Ngày xưa, bắt
đầu, bằng những bản đờn, bài ca điệu Bắc, hơi Bắc, (thường là bài Lưu
thủy trường, Phú lục chấn, hay ba bài Bắc ngắn: Lưu Thủy đoản, Bình bán
vắn, Kim Tiền) chuyển sang hơi Quảng (Khốc hoàng thiên, Xang xự líu,
Sương chiều, hay đờn Tây Thi Quảng) hơi Nhạc, hơi Hạ (Ngũ đối Hạ, Xàng
Xê), rồi chuyển qua điệu Nam, hơi Xuân, hơi Ai qua Đảo Ngũ cung). Và lúc
chót bao giờ cũng qua đến hơi Oán, Ai Oán, và Vọng cổ. Người nghe
thường thích nghe những điệu buồn hơn những bài vui.
Một
buổi đờn ca tài tử không theo một chương trình sắp đặt trước. Anh em
gặp nhau, cao hứng muốn đờn bản gì thì tất cả đồng ý hoà với nhau.
5. Những nét đặc thù của nghệ thuật đờn ca tài tử
1. Rao :
Trước
khi vào bản thuộc hơi nào, nhạc công đờn ca tài tử luôn có câu rao theo
hơi đó. Câu Rao theo truyền thống miền Nam khác hẳn với những bài Dạo
của miền Trung, những bài này Dạo khách, Dạo nam có một nét nhạc cố
định, học trò học rồi mỗi lần trước khi vào bài thì đờn những câu dạo
theo Thầy dạy mà không thay đổi. Câu rao miền Nam phóng túng hơn nhiều.
Mỗi người thầy có một cách Rao, lúc đầu dạy học trò, thì học trò đờn
theo thầy, nhưng khi học trò đến một mức nghệ thuật tương đối khá cao,
thầy cho phép học trò tạo những câu rao đặc biệt cho mình.
2. Cách tô điểm chữ nhạc :
Mỗi
chữ nhạc đều phải được tô điểm bằng những thủ pháp đặc biệt cho mỗi cây
đàn, nhưng mỗi chữ đàn trong các hơi, có những cách tô điểm đặc thù,
tức là bó buộc chứ không phải tuỳ hứng.
3. Phát triển và vận hành giai điệu :
Khi
hoà đờn, người đờn ca tài tử không bao giờ lập lại y khuôn lòng bản mà
thầy đã dạy cho. Theo một quan điểm thẩm mỹ mà trong gia đình tôi thường
truyền lại cho con cháu thì học chân phương đờn hoa lá.
Quan điểm này giúp cho người nghệ sĩ có phần sáng tạo trong khi biểu
diễn để cho nét nhạc thêm tươi, tiết tấu thêm sôi động. Mỗi nhạc công
khi đờn giai điệu có cách sắp chữ, sắp câu theo ý mình, miễn là đi sát
theo lòng bản và giữ vững điệu và hơi. Người nghe theo dõi giai điệu
theo chiều ngang chứ không theo chiều dọc. Nếu có nhiều bè khác nhau thì
người thính giả có thể chọn lựa bè nào mình thích nghe để nghe, các bè
phần nhiều đang xen với nhau rất nghệ thuật, có nhạc công đờn lớn, có
nhạc công ngưng đàn rồi chạy theo câu và khi nào đến cuối câu đều gặp gỡ
nhau rất ăn. Những âm thanh trong các bè không giống nhau, không bao
giờ chõi nhau, tất cả đều hoà chung trong một điệu thức, một hơi đàn.
Sở
dĩ trong khi hoà đờn các nhạc công đờn tài tử, mỗi người phát triển
giai điệu theo một cách, nhiều lúc chưa bao giờ hoà chung với nhau,
nhưng khi nhập cuộc thì tiếng đờn rất ăn với nhau, hoà hợp nhuần nhuyễn,
là nhờ cách phát triển và vận hành giai điệu trong đờn ca tài tử tuân
theo những nguyên tắc của dịch lý, một triết lý sống trong xã hội người
Việt nói riêng và người vùng Đông Á nói chung.
Theo
quan điểm của dịch lý thì vạn vật đều thay đổi từng giây từng phút, các
vật dụng hàng ngày mỗi giây phút qua đều mòn đi một chút, trong con
người chúng ta có hàng trăm hàng ngàn tế bào chết đi và được sanh ra
(biến dịch). Nhưng sự thay đổi đó không làm mất đi hình dạng của vật
dụng và vóc dáng của con người, nhờ có những yếu tố không bao giờ thay
đổi (bất dịch). Có một sự thay đổi khác nhứt thời khi gặp một đối tượng
như lúc chúng ta gặp người bạn thân thì nét mặt tươi cười, với người lạ
thì nét mặt nghiêm trang, dè dặt (giao dịch).
5. Bài bản :
Những
nghệ sĩ đờn ca tài tử đều biết có 20 bài mà phần đông thườg gọi là “ 20
bài tổ” cần phải học, nhưng thực ra ít có ai thuộc hết 20 bài đó, khi
gặp nhau hoà đờn cũng không đờn hết 20 bài, nhưng phải biết tên các bài
đó :
- 6 bài Bắc : Lưu Thủy Trường – Phú Lục Chấn – Tây Thi – Cổ Bản – Bình Bán Chấn – Xuân Tình.
- 3 bài Nam : Nam Xuân – Nam Ai – Đảo Ngũ Cung (cũng có khi gọi là Nam đảo).
- 4 bài Oán : Tứ Đại Oán – Giang Nam – Phụng Hoàng – Phụng Cầu.
- 7 bài lớn
(có khi gọi là 7 bài hơi nhạc hoặc 7 bài cò) : Xàng Xê – Ngũ Đối Thượng
– Ngũ Đối Hạ - Long Đăng – Long Ngâm – Tiểu Khúc – Vạn Giá (những bài
này thường được dùng trong nhạc lễ). Đờn tài tử chỉ dùng Xàng Xê – Ngũ
Đối Hạ (thường gọi là bài Hạ).
Ngoài
20 bài kể trên, còn có rất nhiều bài bản khác được dùng như những bài
Bắc nhỏ : Lưu Bình Kim (Lưu Thủy đoản – Bình Bán vắn – Kim Tiền) – Khổng
Minh toạ lầu – Mẫu tầm tử – Tam pháp nhập môn – Thu hồ.
Có
những bản đờn hơi Quảng, thường dùng trong dàn nhạc tài tử : Ngũ điểm
bài tạ – Khốc Hoàng Thiên – Xang xừ líu – Sương chiều Tú Anh …
Có những bản hơi Triều Châu : Trạng ngươn hành lộ – Mạnh Lệ Quân.
Về
hơi Ai Oán thì có những bài lớn : Văn Thiên Tường – Trường tương tư.
Thường được đờn theo phong cách tài tử, sau này có một số bài ngắn rất
được phổ biến : Đoản khúc Lam Giang …
Ngoài
ra, Vọng cổ 32 nhịp là được thông dụng nhứt. Trong một chương trình hoà
nhạc đờn ca tài tử lúc nào cũng có bài Vọng cổ này.
Kết luận :
Nghệ
thuật Đờn Ca Tài Tử dính liền với nếp sống của nhiều tầng lớp trong xã
hội ngày xưa. Rất nhiều nghệ sĩ tài tử là thợ hớt tóc, lái đò, công chức
và một số bác sĩ, luật sư. Với thời lượng của một buổi họp báo không
cho phép tôi đi sâu vào chi tiết của những vấn đề được nêu ra, nhưng
chúng ta cũng thấy rằng nghệ thuật đờn ca tài tử rất phong phú, đa dạng,
sâu sắc, tế nhị.
Sau
khi đã giới thiệu thành công các bộ môn nghệ thuật như Nhã nhạc Cung
đình Huế, Không gian Văn hoá Cồng Chiêng Tây Nguyên, Nghệ thuật Ca Trù,
Dân ca Quan họ Bắc Ninh, chánh quyền Việt Nam đã có quyết định xây dựng
một hồ sơ hoàn hảo và toàn diện về nghệ thuật Đờn Ca Tài Tử.
Kính chúc buổi họp báo thành công, tốt đẹp.
Bình Thạnh, ngày 28-12-2010
GSTS Trần Văn Khê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét