ÂM NHẠC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
TRÊN THẾ GIỚI
GSTS TRẦN VĂN KHÊ
Âm
nhạc truyền thống Việt Nam đi vào thế giới bằng nhiều ngõ: ngang qua
những thiên du ký, những bài khảo cứu về dân tộc học, nhạc học in rải
rác đó đây hay là trong những Bách khoa từ điển, những lần nhạc công
Việt Nam tham dự hội chợ, hội nghị quốc tế, hay liên hoan âm nhạc, những
dĩa hát, những hình ảnh, phim điện ảnh, băng từ, ghi âm, ghi hình,
những chương trình truyền thanh truyền hình và những cuộc giao lưu văn
hoá.
Tuy
đi vào nhiều ngõ nhưng chỉ là những ngõ hẹp, ít khi đi đến quảng đại
quần chúng, nếu không phải là những chương trình truyền thông đại chúng
được phát sóng trong những giờ có đông đảo khán thính giả.
Vì
vậy, đến ngày nay, rất còn nhiều người không biết rằng âm nhạc, kịch
nghệ Việt Nam có một vị trí đặc biệt trong vùng Đông Á và Đông Nam Á, và
không thể lầm lẫn với âm nhạc Trung Quốc, Nhựt Bổn hay Thái Lan. Và làm
sao người thường dân Âu Mỹ có thể biết được những nét đặc thù, những tế
nhị trong cấu trúc âm thanh, thang âm, điệu thức, tiết tấu để mà ưa
thích, tìm nghe, thưởng thức sâu sắc và đánh giá đúng mức giá trị nghệ
thuật của âm nhạc truyền thốngViệt Nam?
Dài theo lịch sử ai đã ghé mắt nhìn âm nhạc truyền thống Việt Nam?
Từ xưa đến 1950
Xa
xưa nhứt có lẽ ông Sứ thần của triều nhà Nguyên, từ cuối thế kỷ thứ 13,
khi sang Việt Nam nghe tiếng trống đồng xúc động đến bạc tóc. Và ông có
ghi lại những nhạc khí đã thấy tại Việt Nam trong đó có cây đàn một dây
mà bản chữ Hán ghi là nhứt huyền cầm. Lê Quí Đôn đã ghi lại sự kiện ấy
trong Kiến Văn Tiểu Lục.
Đến thế kỷ thứ 17, theo sách «Lịch sử mới, lạ của
Vương quốc Đông Kinh và Lào» (Đông Kinh: dịch từ chữ Tonkin, tên của
nước Việt người ngoại quốc thường dùng thời ấy) in ra năm 1666. Tác giả,
ông de Marini đã viếng nước Việt và đã dự những buổi hát và múa trong truyền thống hát ả đào, ông đã ghi lại: «Giọng
hát của các ả đào làm cho người nghe thích thú đến không ngủ được. Các
cô muốn giữ cho giọng hát của mình được tốt, không ngại kiêng ăn thịt mà
các cô rất thích, không ăn nằm với chồng hay tình nhân cả tuần trước
ngày biểu diễn, tìm ăn những món có thể làm cho giọng hát đẹp hơn như ăn
thịt ếch…Các cô lãnh được nhiều tiền. Nhiều khi được các quan cho làm
hầu hay cả vua chúa, nếu thích giọng hát của các cô, có thể tuyển các cô
vào cung, với tư cách cung nữ hay quí phi».
Đến
thế kỷ thứ 18, vào năm 1789, khi Nguyễn Huệ thắng trận ở Đống Đa, vì
không muốn vua nhà Thanh trả thù nên gởi một phái đoàn sang gặp vua Càn
Long. Trong quyển Khâm định Đại Thanh Hội điển sự lệ, Quyển 538, tờ 3b,
sử gia Trung Quốc có ghi một dàn nhạc mang tên là «An Nam quốc nhạc»
(có lẽ vì vua Càn Long phong cho Nguyễn Huệ tước «An Nam quốc vương») có
mặt trong 9 dàn nhạc được dùng trong cung đình nhà Thanh, mà thành phần
giống như dàn Tiểu Nhạc có từ triều Nguyễn tới nay. Dàn nhạc đó có tấu
nhiều bản cho vua Càn Long nghe. Đến khi vua Gia Long tức vị, năm 1802,
đổi tên nước Việt thành Việt Nam, thì dàn nhạc dó cũng đồi tên là Việt
Nam quốc nhạc.
Đến
khi nước Việt bị Pháp đô hộ, trong số những nhà dân tôc học đến nghiên
cứu âm nhạc dân gian Việt Nam có ông Georges Dumoutier. Năm 1890, nhà
xuất bản E. Leroux tại Paris đã xuất bản một quyển sách dầy 215 trang về
«Những bài hát và truyền thống dân gian của người An Nam». Tác giả chỉ ghi lại những nhận xét khách quan về âm nhạc dân gian.
Vào cuối thế kỷ thứ 19, tại cuộc Đấu xảo quốc tế tại Paris năm 1899, một nhạc sĩ lớn của nước Pháp Claude Debussy đã nghe nhạc
của vài nước châu Á. Nhạc sĩ rất say mê nhạc Indonesia, và đã cho rằng
nghệ thuật đối vị của các bè trong một bản nhạc Indonesia tinh vi đến
đỗi nếu đem ra so sánh, thì nghệ thuật đối vị của nhạc sĩ Palestrina chỉ
là một trò chơi của con nít. Claude Debussy có xem một buổi hát bội
Việt Nam và câu ông ghi lại: «Chỉ có một cây kèn mà làm sôi động cả sân khấu», theo chúng tôi là một lời khen, vì dùng nhân lực tối thiểu mà gây hiệu quả tối đa!
Vào
cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, Pháp có phái một nhà nhạc học người Bỉ
tên Gaston Knosp sang nghiên cứu âm nhạc các nước Đông Dương, tức Việt –
Miên – Lào. Sau nhiều năm ở Đông Dương ông viết một bài đăng trong báo
Le Mercure musical bên Pháp vào năm 1898, về những bài tình ca trong âm
nhạc An Nam và một bản báo cáo rất đầy đủ, đăng trong một tạp chí dân
tôc học của Đức Archiv für Ethnographie Quyển XX năm 1911 và Quyển XXI
năm 1912 về chuyến công vụ nghiên cứu của ông. Bài đó được đăng lại
trong Quyển Bách khoa âm nhạc và Từ điển của Nhạc viện do Albert
Lavignac chủ biên, Quyển V.
Có thể nói rằng bài viết tựa là «Lịch sử âm nhạc trong các xứ Đông Dương»
là một bài đầy đủ về các nhạc khí, các loại nhạc thính phòng, nhạc sân
khấu, trong dân gian, trong cung đình của Việt Nam vào đầu thế kỷ 20.
Trong phạm vi bài tham luận hôm nay, chúng tôi không dẫn ra những sai
lầm của ông Gaston Knosp. Chỉ nói rằng ông rất chê âm nhạc Việt Nam, cho
rằng thua nhạc Khmer rất xa về giai điệu và về tiết tấu.
Ông
cho rằng giai điệu nhạc Việt Nam rất ngây ngô (naîveté), trẻ con
(enfantine), vụng về (gauchement exprimée), thang âm không hoàn hảo
(imperfection de la gamme), ông lại phân tích theo cách majeur mineur
(trưởng, thứ) và cho rằng nhạc Việt Nam không theo luật lệ gì. Cách
nhìn, cách nghe, cách nhận thức của ông đều sai và thiển cận, mà lại có
lời phê phán thiên vị và không chính xác.
Ngược
lại ông Ernest Le Bris học ca nhạc Huế phân tích âm nhạc thính phòng
cũng như những điệu xẩm xoan, hay bản Tứ Đại Cảnh một cách trung thực
khách quan và rất tôn trọng giá trị nghệ thuật của nhạc Việt Nam. Những
bài viết của ông được đăng trong Tạp chí «Những người bạn của cố đô Huế» (Bulletin des Amis du Vieux Huế năm 1922 và 1927).
Hai
ông P. Cadière và Orband nghiên cứu nhạc cung đình, chụp ảnh các dàn
Đại nhạc, Tiểu nhạc từ lúc đầu thế kỷ 20, và qua mấy chục năm nghiên cứu
về Tế Nam Giao.
Dài
theo thời gian, những nhà dân tộc học tiếp tục tìm hiểu những bộ môn âm
nhạc khác nhau: Georges Cordier sưu tầm ca dao, ông Jean Yves Clayes
lắng nghe tiếng hát dân chài, ông Georges Coulet đi nghe hát bội và viết
hai quyển sách về nghệ thuật hát bội và tổ chức vật chất của những gánh
hát bội, Georges de Gironcourt có cái nhìn bao quát về dân ca các miền
trong quyển «Địa dư âm nhạc trong toàn cõi Đông dương»,
Georges Condominas khai quật được nhiều thanh đá tại vùng Ndut Lieng
Krak đem về Pháp và nhờ các nhà dân tộc nhạc học André Schaeffner, Jaap
Kunst nghiên cứu cây đàn đá tiền sử về mặt nhạc học, Jacques Dournes
nghiên cứu về âm nhạc dân tộc Gia Lai (Jorai), Pierre Huard Giáo sư thạc
sĩ về Y học lại tìm hiểu về dàn chiêng của dân tộc Mnong ga, Maurice
Durand sưu tập dân ca và đặc biệt các bài hát Chầu Văn.
Thường
thì các nhà nghiên cứu dân tộc học, chỉ nhìn rất kỹ, ghi lại tường tận,
đôi khi tỉ mỉ trong chi tiết, nhưng ít khi phê phán khen chê. Nhưng qua
những bài viết chúng ta cũng thấy rằng các vị ấy không phải chỉ vì tánh
tò mò, mà thật sự yêu mến dân ca cổ nhạc, kịch nghệ Việt Nam mới xem đi
xét lại, có khi năm nầy sang năm nọ, thậm chí có người như ông Jacques
Dournes đã hiến cả cuộc đời cho công việc nghiên cứu văn hoá của vùng
Tây Nguyên và ông Maurice Durand cho văn hoá Việt Nam.
Có
những người không phải nghiên cứu mà sưu tầm như bà De Hautecloque đã
ghi âm rất nhiều nhạc dân tộc thiểu số trên Tây Nguyên, trao những băng
ghi âm cho Bảo tàng Viện Guimet mà không có viết bài về các loại nhạc
ấy.
Có
những người sưu tập dĩa hát như ông Ch. Wolf, có một số dĩa rất độc
đáo. Nhờ bộ dĩa sưu tập của ông mà tôi nghe được mấy vở cải lương của
gánh Văn Hí Ban, ghi vào dĩa hát Béka, nghe cô Bảy Phùng Há ca Vọng cổ
mà tôi có xin chép lại một bổn để tặng cho cô Bảy.
Bà
Bá tước Geneviève de Chambure có sưu tập rất nhiều nhạc khí cổ của Việt
Nam và bà đã tặng cho Bảo tàng viện của Nhạc viện Paris. Bà cũng có ghi
rất nhiều tiết mục đặc biệt về tiếng hát ru em trong xóm Bàn Cờ, tiếng
đờn của mấy chú Triều Châu đi bán dạo trong Chợ Lớn, khá nhiều tiết mục
âm nhạc Tây Ngưyên và một số bài đờn hát Chầu Văn đủ các điệu Dọc, Cờn
Sơn Trang, Xá, Đò đưa, những bài hát ca ngợi cho Công đồng, Bà Mẫu
Thoải, Bà Mẫu Thượng ngàn v..v…
Từ 1950 đến nay
Sau
những năm 1950, khi môn dân tộc nhạc học được mở mang, nhiều nhà dân
tộc nhạc học trong đó có chúng tôi muốn đi những chuyến điền dã tại Việt
Nam, nhưng vì chiến tranh nên không có ai sưu tầm, thu thanh, nghiên
cứu âm nhạc Việt Nam.
Trong
giai đoạn đó tôi chỉ gặp Giáo sư Stephen Addiss ghi lại các bài từ Dạ
cổ hoài lang đến Vọng cổ, một số Hát nói theo phong cách Ca trù, anh L.
Traynor đến học đàn tranh với Nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo và nghiên cứu về
Ca nhạc tài tử theo truyền thống miền Nam. Miền Bắc có bà Poliakova vợ
một tùy viên văn hoá Đại sứ quán Liên xô tại Hà Nội đã ghi một số tiết
mục nhạc do Đoàn ca múa dân tộc Hà Nội biểu diễn, nên trong dĩa hát bà
thực hiện về Nhạc Việt Nam có đàn T’rưng, đàn Klongput, mà không có
những tiết mục độc đáo của Việt Nam như Ca Trù, Ca Huế, Đờn Tài Tử, Hát
chèo, Hát bội (hát tuồng) v.v… Bà có nghiên cứu về Ca Trù và đọc bài
tham luận về Ca Trù tại Hội nghị âm nhạc tại Ulan Bator (Mông Cổ) nhưng
nghiên cứu của bà chưa sâu sắc vì bà không nói được rành rẽ tiếng Việt.
Từ 40 năm nay, đã có nhiều người đến tìm hiểu và say mê thật sự âm nhạc Việt Nam. Không thể kể hết tên các bạn ấy.
Điển
hình là anh Barley Norton, người Anh, không chỉ đờn Đáy rất hay, học
trò của cháu Mạnh Tiến, mà biết Hát nói, biết đánh phách, lại biết đờn
Nguyệt theo phong cách Chầu Văn, biết hát những bài Hát Văn, và nói
tiếng Việt Nam rất rành. Trong một buổi trả lời những câu hỏi báo chí
anh có nói: «Cây đàn
Đáy của Việt Nam rất tuyệt vời. Vậy mà thanh niên Việt Nam không ai
thích học đàn Đáy, chỉ thích đàn ghi ta. Sau nầy các Thầy trẻ như Thầy
Khuê, Thầy Tiến qua đời, không còn ai nối nghiệp các Thầy. Chừng đó nếu
trong các bạn trẻ có ai muốn học đàn Đáy chắc sẽ phải sang Luân Đôn học
với tôi».
Gần
đây cô Aliénor Anisensel, sinh viên nguời Pháp đã chịu khó nghiên cứu
và học hát ca trù với gia đình Cụ Nguyễn Văn Mùi, đặc biệt với cháu Thúy
Hoà. Cô bập bẹ tiếng Việt mà đã hát bài Gặp cô đào cũ (Hồng Hồng Tuyết
Tuyết) vừa hát vừa gõ phách, biết rõ và phân tích được các khổ phách,
khổ đàn.
Ngày
nay, phải nhìn nhận rằng thế giới đã biết rõ hơn, nhiều hơn âm nhạc
truyền thống Việt Nam và có thể nói đã thưởng thức và đánh giá đúng mức
âm nhạc truyền thống Việt Nam.
Giới
trí thức, những nhà nghiên cứu âm nhạc đã có những bài của chúng tôi
viết đăng trong các Bách Khoa từ điển Encyclopédie de La Pléiade,
Larousse musical, Encyclopédie Fasquelles, Encyclopédie Retz,
Encyclopédie des musiques sacrées (Labergerie) Dictionario encyclopedico
della la musica của UTET (Unione Tipographico Editrice Torinese),
Harvard Dictionary, The New Grove Dictionary of Music and Musicians,
Encyclopaedia Universalis.
Trong
các tạp chí chuyên môn, La Revue de Musicologie, Arts Asiatiques bên
Pháp, Ethomusicology, Selected Reports bên Mỹ, Acta Musicologica và
Cahiers d’ethnomusicologie bên Thụy Sĩ, The World of Music bên Bá Linh,
Musikgeschiste in Bildern bên Đức, Le Courrier Musical của Unesco,
Bulletin of the National Centre for the Performing Arts tại Bombay, và
trong nhiều tạp chí hay sách chuyên đề khác, ngoài
chúng tôi còn có giới trẻ như con trai của tôi GS Trần Quang Hải, cựu
môn sinh của tôi GS Nguyễn Thuyết Phong, GS Lê Tuấn Hùng, giới thiệu
nhiều bộ môn trong nhạc truyền thống Việt Nam.
Dĩa
hát đủ các loại, từ dĩa xưa 78 vòng ít được phổ biến trong các nước Âu
Mỹ, qua các dĩa loại 33 vòng dến dĩa CD ngày nay, đã giới thiệu khá đầy
đủ các bộ môn âm nhạc truyền thống.
Ngang
qua các giải thưởng lớn của các Hàn Lâm Viện dĩa hát hay các cơ quan
phê bình, chúng ta thấy rằng âm nhạc truyền thống Việt Nam cũng được
quan tâm và đánh giá cao.
Bên
Pháp chúng tôi đã được hai lần Giải thưởng lớn của Hàn Lâm Viện dĩa hát
Pháp (Académie du disque français) năm 1960, Giải các trường Đại học
Pháp (Prix des Universités de France) dĩa hát La Boîte à musique, và năm
1970 Giải thưởng Dân tộc nhạc học (Prix d’Ethnomusicologie) với dĩa hát
Barenreiter-Musicaphon số 2022 về Ca nhạc Huế và Nhạc cung đình Huế.
Năm 1994 được giải Diapason d’or với dĩa hát nhạc tài tử miền Nam thâu
thanh với sự tham gia của Nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo, dĩa CD Ocora. Dĩa
thâu thanh với Hải Phượng, dĩa Ocora Le Đàn tranh Musiques d’hier et
d’aujourd’hui (Cây đàn tranh Âm nhạc xưa và nay) được báo Thế Giới âm
nhạc (Le Monde de la Musique) sắp biệt hạng: «Choc» (Chấn động, tức là
người nghe thích thú cực độ, như bị chấn động). Dĩa Ca Trù với nhóm Thái
Hà năm 1994 và Dĩa Nhạc Phật giáo năm 1995 cũng được báo Thế giới âm
nhạc xếp hạng «Choc».
Trần Quang Hải và Bạch Yến hai lần được Giải thưởng lớn của Hàn Lâm Viện Charles Cros, giải quan trọng nhứt về dĩa hát bên Pháp.
Bên
Đức năm 1969 dĩa hát về Ca nhạc Huế và nhạc cung đình Huế được Giải
thưởng lớn Deutscher Schallplatten Preis. Năm 1994 Dĩa Ocora thâu thanh
với Hải Phượng được Giải thưởng lớn của các nhà phê bình trẻ về dĩa hát.
Từ
năm 1959 - 1960 nữ sĩ Mộng Trung và tôi đã đi trình diễn cho Hội Thanh
niên yêu nhạc Thụy Sĩ, cô Bảy Phùng Há, Kim Cương và tôi đã đi biểu diễn
tại Hội nghị Hội đồng quốc tế âm nhac ở Hambourg (Đức), tại Trung tâm
nghiên cứu nguyên tử lực châu Âu ở Thụy Sĩ, ba cha con chúng tôi Trần
Quang Hải, Trần Thị Thủy Ngọc và tôi đi trình diễn nhạc truyền thống
trong những Liên hoan âm nhạc tại nhiều nước khắp năm châu. Riêng Trần
Quang Hải và Bạch Yến đã giới thiệu âm nhạc dân tộc Việt Nam trên 2000
buổi khắp thế giới.
Nguyễn
Thuyết Phong, Nguyễn Đình Nghĩa bên Mỹ, Lê Tuấn Hùng và Kim Hiền bên
Úc, Phương Oanh, Quỳnh Hạnh bên Pháp, Trần Quang Hải và Bạch Yến trên
nhiều nước đã đem giọng đàn tiếng hát dân tộc Việt Nam đến thính giả Âu
Mỹ.
Những
nhà nghiên cứu âm nhạc, trong các bài đăng ở các tạp chí chuyên môn,
những nhà phê bình dĩa hát đã nhiều lần đánh giá cao âm nhạc truyền
thống Việt Nam.
Sức hấp dẫn quần chúng thính giả của âm nhạc truyền thống Việt Nam
Về
phía quần chúng thính giả tôi xin đơn cử ba thí dụ cụ thể, chứng tỏ sức
hấp dẫn và tính nghệ thuật của âm nhạc truyền thống Việt Nam.
Tại
Liên hoan âm nhạc truyền thống ở Shiraz, một thành phố phía Nam của Ba
Tư, năm 1967, Ban tổ chức mời tôi tham dự nhạc hội. Năm đó là lần đầu
tiên thính giả Ba Tư nghe nhạc các nước châu Á, nên ban tổ chức mời nhạc
sĩ của ba nước Nhựt Bổn, Ấn Độ, Việt Nam biểu diễn phần đầu, mỗi người
15 phút, cộng lại 45 phút. Phần nhì một giờ nhạc truyền thống Ba Tư để
cho thính giả thích nghe nhạc Ba Tư đến nhạc hội và «làm quen» với Nhựt
Bổn, Ấn Độ và Việt Nam. Ban tổ chức thăm dò dư luận thính giả ngang qua
báo chí và những người dọn phòng họp.
Năm
sau, 1968, biết thính giả cho rằng nhạc Nhựt Bổn «khó nghe» nên không
mời nhạc Nhựt Bổn, mà để cho phần đầu nhạc Ấn Độ và nhạc Việt Nam, mỗi
truyền thống 30 phút, phần 2 vẫn còn một giờ nhạc Ba Tư.
Năm 1972, tôi được mời đảm nhận một giờ phần đầu, phần 2 nhạc Ba Tư. Tôi cùng đi với con trai tôi là Trần Quang Hải tham dự.
Năm
1975, ban tổ chức cho biết là sẽ mời tôi đảm nhận 2 tiếng đồng hồ,
nguyên một đêm không có một giờ nhạc Ba Tư phần 2 để kéo khách. Như vậy,
nếu thính giả không quyết lòng nghe nhạc Việt Nam trong 2 giờ đồng hồ,
thì sẽ không ai đến cả. Đêm đó, Ban tổ chức lại cho Đài Phát thanh và
Đài truyền hình phát sóng trực tiếp. Nếu thính giả không thích sẽ tắt
máy và các đài sẽ biết số người theo dõi chương trình là bao nhiêu. Năm
đó tôi đi dự Liên hoan với con gái tôi Trần Thị Thủy Ngọc. Và trước giờ
bắt đầu, tôi rất lo. Thấy thính giả lần lượt vào ngồi chật hết trong
phòng hoà nhạc, tôi vững bụng và thật ra, từ trước đến năm 1975, chưa có
lần nào tôi biểu diễn âm nhạc truyền thống Việt Nam liên tục trong 2
giờ đồng hồ như vậy. Truớc mỗi tiết mục, tôi có đôi lời dẫn giải nhưng
đêm đó là một buổi hoà nhạc chớ không phải một buổi thuyết trình về nhạc
Việt Nam có minh hoạ.
Thính
giả ở đến cuối buổi hoà nhạc, không bỏ ra về nửa chừng. Sáng hôm sau bà
Shéhérazade Ghotbi, Giám đốc nghệ thuật của Liên hoan mang một bó hoa
đến tặng cha con tôi và nói: «Những
người trong Ban tổ chức, Đài truyền thanh, truyển hình rất vui vì thấy
số thính giả đông hơn dự định. Báo chí phê bình nồng hậu». Tiếc
rằng sau năm 1976, có cuộc thay đổi chế độ, chánh quyền mới dẹp bỏ
Festival Shiraz. Nếu không, tôi có thể giới thiệu các đoàn văn nghệ
trong nước sang dự Nhạc hội vì quần chúng Ba Tư đã chịu nghe nhạc Việt
Nam rồi.
Đó
là quần chúng thính giả châu Á. Bên châu Âu, năm 1979 tôi đuợc Hàn Lâm
Viện Listz mời sang giảng về các truyền thống âm nhạc châu Á. Tôi dành
ba ngày để thuyết trình về nhạc truyền thống Việt Nam. Hết khoá giảng,
Giáo sư Kroo, dạy âm nhạc học, đề nghị với tôi: «Nghe
giáo sư giảng về nhạc Việt Nam, các giáo sư và sinh viên rất thích.
Nhưng chúng tôi chỉ có hơn trăm người được nghe. Tôi đề nghị Giáo sư
giới thiệu trên đài phát thanh một chương trình 45 phút về âm nhạc Việt
Nam, sẽ có cả triệu thính giả được nghe». Tôi rất thích và để kết luận tôi có nói: «Âm
nhạc Việt Nam là một ngôi vườn trăm hoa mà trong 45 phút chúng tôi chỉ
có giới thiệu rất sơ sài mỗi bộ môn, như trong nước tôi thuờng nói «Phò
mã cỡi ngựa xem hoa», mong có dịp khác chúng tôi sẽ giới thiệu đầy đủ
hơn về truyền thống dân gian và truyền thống bác học».
Sau
khi Bộ biên tập Đài truyền thanh Budapest nghe bài giới thiệu của tôi
đã nhờ Giáo sư Kroo đề nghị với tôi thuyết tình thêm hai buổi, một buổi
về truyền thống dân gian và một buổi về truyền thống bác học.
Nhưng
tôi lại nói, các bạn vừa nghe nhạc truyền thồng cổ của dân tộc Kinh.
Nước Việt Nam ngoài người Kinh còn có 53 sắc tộc ít người và mỗi sắc tộc
có những cách ca múa đàn khác nhau. Và từ gần nửa thế kỷ có một loại
nhạc mới đáp ứng đuợc nguyện vọng hoài bão dân tộc Việt Nam. Loại nhạc
đó là nhạc mới chúng tôi cũng chưa đề cập. Ban biên tập lại mời tôi giới
thiệu thêm 2 buổi nữa về âm nhạc sắc tộc thiểu số và tân nhạc.
Hẹn
với tôi tháng 3 dương lịch năm 1979 sẽ phát liên tục 5 buổi về âm nhạc
Việt Nam, nhưng ban biên tập lại đề nghị với tôi xin hoãn lại đến tháng 9
dương lịch để phát sóng nhân dịp lễ quốc khánh Việt Nam. Sau tháng 9
Giáo sư Kroo viết cho tôi một bức thư thuật lại phản ứng của thính giả: «Tôi
rất vui mừng cho giáo sư biết rằng 5 buổi nói chuyện về âm nhạc của
giáo sư trên đài phát thanh được nhiều thính giả theo dõi và tán thưởng.
Cả nhân viên của Đại sứ quán Việt Nam tại Budapest có nghe, ghi âm và
xin Đài truyền thanh ghi cho những bản nhạc Việt Nam dã phát. Nhưng có
một số rất lớn thính giả gởi thư phản đối… không phải phản đối giáo sư
mà phản đối Viện âm nhạc. Các vị ấy nói sau khi 5 buổi phát thanh về
nhạc Việt Nam, vào thư viện tìm đọc một bài về âm nhạc truyền thống Việt
Nam, thì không có một bài nào viết bằng tiếng của dân tộc magyar
Hungary cả. Chúng tôi thấy các thính giả trách rất đúng, nên chúng tôi
xin giáo sư viết một bài về âm nhạc truyền thống Việt Nam độ chừng 15
trang đánh máy, chúng tôi sẽ dịch ra tiếng magyar để đáp ứng yêu cầu của
thính giả».
Thí
dụ thứ ba xảy ra tại châu Úc. Năm 1979 Hội đồng quốc tế âm nhạc thuộc
Unesco cử hành Đại hội tại Melbourne (Úc châu). Tôi được mời tham gia
buổi hoà nhạc nhân Ngày quốc tế âm nhạc (mùng 1 tháng 10 năm 1979). Có
hơn 20 nghệ sĩ giới thiệu âm nhạc của nước mình mỗi người từ 5 đến 8
phút. Tôi ngâm Kiều đoạn Kiều ở lầu Ngưng bích theo hơi Sa mạc và tự đệm
bằng đàn tranh. Trong 20 người tham dự, ông Giám đốc Nhạc viện
Melbourne đến tìm tôi và khẩn thiết yêu cầu tôi ngâm lại mấy câu thơ
Kiều và thuyết giảng đầy đủ hơn về thang âm điệu thức sa mạc, về sự liên
quan mật thiết giữa nét nhạc và thanh giọng trong ngôn ngữ Việt Nam cho
sinh viên Úc nghe. Nếu âm nhạc Việt Nam không có một giá trị nghệ
thuật, tại sao trong số 20 người biểu diễn nhân ngày quốc
tế âm nhạc, ông Giám đốc Nhạc Viện Melbourne không mời những nhạc sĩ
châu Phi, châu Mỹ, châu Âu, lại mời tôi đến nói chuyện về thang âm điệu
thức Việt Nam cho sinh viên nghe? Sau buổi nói chuyện ông cám ơn tôi
bằng mấy câu: «Cám ơn
Giáo sư đã cho chúng tôi nghe thang âm điệu thức đặc biệt của hơi Sa
mạc để mở rộng tầm tai nghe của chúng tôi ra khỏi khuôn khổ của thang âm
bình quân phương Tây. Từ nay về sau nếu có nhạc sĩ châu Á, châu Phi ghé
tại Melbourne chúng tôi sẽ cố gắng mời các nhạc sĩ ấy đến cho chúng tôi
nghe các thang âm điệu thức khác, mở rộng tầm tai chúng tôi».
Những
câu chuyện trên chứng tỏ rằng âm nhạc dân tộc Việt Nam có tính nghệ
thuật cao và có sức hấp dẫn người nghe rất lớn. Nếu chỉ vì hiếu kỳ thì
15 phút nhạc trong một chương trình nghệ thuật tại Shiraz, 45 phút trên
đài phát thanh Budapest cũng đủ thoả tính tò mò của thính giả. Nhưng từ
15 phút lên lần đến 30 phút, 1 giờ, và sau cùng là 2 giờ đồng hồ, lại có
truyền thanh truyền hình trực tiếp, từ 1 buổi 45 phút lên đến 5 buổi 45
phút, nghe rồi còn vào thư viện tìm tư liệu đọc để hiểu thêm, chứng tỏ
quần chúng tại Hungary đã nhận thức được chân giá trị nghệ thuật của âm
nhạc truyền thống Việt Nam. Trong 20 nghệ sĩ giới thiệu nhạc của nhiếu
nước trên thế giới nhân ngày Âm nhạc quốc tế, Âm nhạc truyền thống Việt
Nam đã kích thích đuợc tính hiếu kỳ của Ông Giám đốc Nhạc viện
Melbourne.
Để
kết luận, chúng tôi thấy rằng chúng ta không nên vội xem thường truyền
thống Việt Nam và cho rằng cổ nhạc Việt Nam «lạc hậu». Các bạn bè trên
thế giới chưa có dịp được nghe nhạc Việt Nam với lời giới thiệu ngắn gọn
mà đầy đủ. Bổn phận chúng ta là phải tìm cách giới thiệu rộng rãi âm
nhạc Việt Nam bằng những phương tiện kỹ thuật tiên tiến, dĩa hát, băng
video, dĩa DVD với lời giới thiệu đầy đủ. Và tôi xin được phép nhắc lại
một câu của nhà văn Romain Rolland trong quyển Jean Christophe: «Âm
nhạc, dầu ai nói gì đi nữa, không phải là ngôn ngữ đại đồng. Cần có cây
cung của tiếng nói để bắn mũi tên âm thanh vào lòng của mọi người» (La
musique quoi qu’on en dise, n’est pas une langue universelle. Il faut
l’arc des mots pour faire pénétrer la flèche des sons dans le cœur de
tous).
CLAYES (J. Yves) Les chants des pêcheurs en Annam. In Bulletin de l’Institut indochinois pour l’Etude de l’Homme Hanôi, 1939 fasc.1 pp. 149-154.
CONDOMINAS Georges Le lithophone préhistorique de Ndut Lieng Krak in Bulletin de l’Ecole Française d’Extrême Orient Hanôi 1951 pp359-392
CORDIER (G.) Essai sur la littérature annamite. La chanson in Revue Indochine XXII/2 N° Nov. Déc. 1959 Hanôi pp. 283-342
DOURNES (J) Chanson Mnong gar in Revue France-Asie N°87 Paris 1953 pp. 648-656.
COULET (G) Organisation matérielle du théâtre populaire chez les Annamites, Saigon, 1927 162p.
DUMOUTIER (G) Les chants et traditions populaires des Annamites; Paris E.Ledoux 1890 215p
GIRONCOURT (G.de) Recherches de géographie musicale en Indochine, in Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises Nouvelle Série Tome XVII N°4, 4è trimestre 1942 Saigon 1943, 174p.
KNOSP (Gaston) Rapport sur une mission officielle d’études musicales en Indochine, in Archiv für Ethnographie Band XX, 1911, 123-151; 165-168; Band XXI 1912 pp 19-65.
ID. Histoire de la Musique de l’Indochine in LAVIGNAC ed Encyclopédie de la Musique et Dictionnaire du Conservatoire T.V Paris, Delagrave, 1922 pp3100-3126 .
LE BRIS (Ernest) Musique annamite: Airs traditionnels, in Bulletin des Amis du Vieux Huê Oct. Déc. 1922 pp 215-310
ID/Musique annamite: Les musiciens aveugles de Huê. Le Tu dai canh, in BAVH Avril 1927, pp 137-148
MARINI (P. Giovanni Filippe de) Histoire nouvelle et curieuse des royaumes de Tonkin et de Lao, traduit de l’italien par François Celestin Le Comte. Paris G. Clouzier 1666, 436p.
SCHAEFFNER (André) Une importante découverte archéologique: le lithophone de Ndut Lieng Krak in Revue de Musicologie, XXIII N°5 1951 tiré à part pp1-19.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét